Trăng mười sáu vừa ló trên mí nước. Mặt biển
bỗng nghiêng hẳn xuống. Từng thảm bụi vàng óng ánh
từ ngoài khơi xô nhau chạy vào bờ. Sóng đập rì rào dưới
chân những tảng đá lớn.
Trẻ con chơi ú tim tìm bắt sau lườn các ghe cũ úp trên
cát. Có những đứa trốn trên những mỏm đá nhô trên
mặt nước, cười. Chúng lăn trên cát như trẻ con đồng
bằng vẫn lăn kềnh trên đống rạ.
Ca nô địch lấp ló trên sông Bến Hải. Đồn cảnh sát
miền Nam bên kia sông lù mù ánh đèn, khuất trong rặng
phi lao.
Tất cả cuộc sống của xóm chài như đang đổ dài
trên ven biển. Đàn ông nằm la liệt trên mặt cát, sạp
ghẹ, gối tay lên đầu hút thuốc, chuyện gẫu, đợi
giờ ra khơi. Đàn bà cho con bú, xếp lại cá, gánh, mai
đi chợ. Mấy đứa bé tập đi bi bô quanh quần mẹ, ngã
lăn tròn như đếm khoai. Mấy anh trai lơ làng chài ngồi
rúc đầu vào lông cánh. Bên ấy, những người lính
miền Nam có ăn lương cảm tử. Cảm tử vì sống sát
bờ Bắc. Một mũi súng cảm tử của một người lính gác
nào đó lộ liễu sau rặng phi lao.
Những đứa bé đùa chán ngủ quên trên cát đã được
mẹ ôm về đặt trên những vuông phản kê ngay trên bãi
cát, dưới ánh trăng, và dưới chiếc quạt khổng lồ
của sức gió. Tiếng cười càng rộn rã quanh những
bếp nướng cá. Cá nướng cho tươi, sáng mai mấy o gánh
lên chợ huyện bán cho mậu dịch. Khói cá thơm ngậy,
quyện lên như một thứ thức ăn nhẹ nhàng của buổi
tối. Ngày nào cũng thế, người ta đánh cá buổi sớm,
ăn cá ban ngày và ngửi mùi cá nướng ban đêm. Một mùi
thơm có vị ngọt của chất đạm, vừa béo, vừa bùi,
không bao giờ chán.
- Mấy o tàn nhẫn lắm nhỉ? Đàn ông người ta chỉ
bắt cá nó chết có một lần, mấy o bắt nó chết tới
ba bốn lần. ác nghiệt rứa!Tiếng cười rộ lên...
- Răng mà chết ba bốn lần?
- Nè, lấy cái cây thọc vô họng nó là một lần, đau
đớn người ta chưa? Rồi đem nướng lên cho người
chảy mỡ ra là hai lần; mấy o đem bán đi, mấy o khác
mua về moi ruột người ta ra là ba lần, xong rồi đem cho
tiêu cho muối vô kho người ta lên là bốn. Nghiệt rứa!
Mấy o lại cười. Tay quạt ngừng, khói được dịp
cuộn lên sặc sụa.
- Chúng tôi hy sinh chịu tiếng ác cho mấy eng ăn nớ.
Eng coi bữa cơm đàn ông ăn nhiều hay đàn bà ăn nhiều?
- Chớ công ai ra biển lưới về cho mấy o nướng?
Mấy o cười lấp, ho to mãi lên.
Trong số những tiếng ho vui vẻ ấy, có tiếng của
chị Bính. Những lời đối đáp trên cũng của hai vợ
chồng nhà chị. Ngày hai người chưa lấy nhau, chị Bính
là người cầm đầu tốp thanh nữ, đối chọi với
thanh niên. Anh Bính là địch thủ cừ khôi của chị,
nhiều lần từng làm chị phát khóc. Cũng vì những
cuộc ví von đối đáp ấy mà họ yêu nhau, lấy nhau,
rồi thương nhau chí tình. Bây giờ tuy họ đã có đến
hai thằng cu Bôn, nhưng đôi vợ chồng ấy lúc nào cũng
cảm thấy như mình còn trẻ. Bên bếp nướng cá, dưới
những đêm trăng sáng ven biển, dưới mặt trai gái trong
thôn, họ trở lại cái tình ngày nào. Anh lại trở nên
người giữ lái cho tốp đàn em trai trẻ, chị cũng
thế, tiếp lời cho mấy o đáp lại. Trong những phút
ấy họ thuộc về cái giới riêng của họ, là của người
nam, người nữ, cái gì còn lại thuộc về vợ chồng thì
chỉ là những sự lâng lâng, rộn rã ở trong lòng mà các
bạn trẻ ở chung quanh nhận ngầm ra trong tiếng cười,
khoé mắt cuả họ.
... Mọi câu chuyện về tương lai, khi hợp tác đã có
tàu đánh cá, những người con trai được lái tàu ra khơi
thì lúc ấy vô số những người con gái Cửa Tùng cũng
sẽ được bỏ gồng gánh mà lái những đoàn xe hơi đồ
sộ chở cá ra tận Đồng Hới, hoặc qua cầu Hiền Lương
vào Huế... Một câu chuyện vui về cái súng của tay
cảnh sát miền Nam sang bờ Bắc gác, đeo sề sệ xuống
cái túi bắt gà... Chuyện về ngày thống nhất, lúc ấy
bắt tất cả các anh trai làng ôm nhau làm cầu nối để
cho đàn bà, trẻ con thoả sức qua sông... và bây giờ,
đố mấy o làm cách nào, làm sao cho những người lính
miền Nam thương yêu đồng bào của họ... Lại có cả câu
chuyện tại sao con cá hồng lớn lên nó lại đỏ hồng
cả đuôi cả mắt, nước biển lại đứng khi trăng
tới đỉnh đầu, và những con gái lớn lên ai bảo không
đi tu mà cứ hay lấy chồng...
Anh Bính nói to, lý lẽ sắc sảo. Còn chị Bính tuy nói
nhỏ nhẻ nhưng nếu con ruồi mà bay qua cũng phải chết
lăn quay.
Đêm nay, khi câu chuyện vừa tan thì trăng cũng bắt đầu
tròn bóng. Nước biển sắp xuống, gần tới giờ ra khơi
mà anh Bính còn nằm sấp trên một chiếc phản kê ngoài
bãi cát. Anh cởi trần, lưng đen bóng như lườn cá ngừ
phơi dưới ánh trăng, tay đang hý hoáy viết. Chị Bính
ôm thằng cu Bôn ngồi bên cạnh.
- Này, thôi đưa tôi bồng con cho, ả viết dùm tôi đi!
- Eng viết đi!
Chị Bính nguây nguẩy, cứ nhấc đít thằng cu Bôn lên
mà xi đái, mặc dù nó đang ngủ tít. Không sao được,
anh Bính lại viết một cách khó nhọc. Bàn tay to lớn
ấy mà hạ một cây cột buồm thì dễ biết mấy. Chị
Bính nói:
- Eng cứ nhủ là ớ o Quế, chúng tôi biết là cái nón
của o, chừ xin trao lại o. Chúng tôi vẫn nhớ tên từng
người trong xóm ta bên nớ...
Anh Bính lừ mắt, bình mực vướng tay chút nữa đổ:
- Nói cái chi mà lanh rứa? Chầm chậm, nào... ớ o
Quế... cái nón của o...
O Quế là người bên bờ Nam, hôm kia o xuống sông xóc
ngô, chẳng may để cái nón bay xuống nước. Không lội
ra lấy được, vì sợ đồn cảnh sát nghi là vượt
tuyến, bắn chết, o đành để mặc cho gió thổi dạt
sang bờ Bắc. Cái nón đã được anh Bính vớt lên. Không
biết làm cách nào trao lại. Chèo ghe qua trả thì không
được, sẽ làm luỵ cho o. Giữ mãi cái nón bên ni thì
không đành lòng. Anh Bính đành đóng một cái cọc sát
bờ Nam, treo nón lên đó.
Vừa rồi anh Bính vui miệng kể câu chuyện ấy ra
quanh bếp nướng cá. Muốn trêu chị Bính, tốp thanh niên
còn nói thêm rằng hôm qua họ trông thấy o Quế từ bên
tê sông mỉm cười gật đầu chào anh Bính. Họ còn khen
o Quế thương nhớ ai bên bờ Bắc mà chưa chịu lấy
chồng... Anh Bình đắc ý, nói chêm vào:
- Chuyện đó nói ra mần chi, đàn ông chúng mình biết
với nhau thôi.
Chị Bính ngừng quạt:
- Ghen chi rứa mà ghen! Nam Bắc là một nhà. Nếu cái nón
đó sau này bị bọn cảnh sát tịch thu thì tôi sẽ gửi
tiền ra Ba Đồn mua cho o Quế một cái nón mới khác
nữa kia chớ. Ba cân cá nục chứ mấy. Đàn ông nhà này
mần như vậy là phải điều lắm chớ, phải không chị
em?
Trăng hắt trên mặt chị óng ánh những màu nước
biển. Tiếng cười rộ lên.
Khi đám trai gái làng đi rồi thì hai vợ chồng mới nói
chuyện thân mật với nhau.
Chị Bính hỏi chồng mà mắt lại nhìn thằng cu Bôn:
- Chuyện thiệt như vậy hay sao?
- Răng lại không? ả còn cười với tôi nữa chớ.Anh
Bính cười, rung rung bộ ngực. Chị Bính lườm:
- Là nói o Quế đã nhận được nón chưa? Hay là bị
cảnh sát tịch thu? Cười răng mà cười?
Anh Bính im lặng, co hai cái chân đang duỗi ngửa tềnh
nghềnh trên cát lại. Chị Bính vẫn chậm rãi nói với
thằng cu Bôn.
Eng nên viết gởi trên đài cho o Quế mấy câu đi. Nói
là xin trao nón lại cho o, bà con bên bờ Bắc ni vẫn
nhớ tới o, nhớ tới chú bác xóm giềng. Phải chi nước
nhà thống nhất thì... tôi hay đàn bà của tôi sẽ chèo
ghe qua bên nớ trao nón tận tay trả o, ngặt vì... thôi,
cứ nói đồng bào mình thì phải thương yêu nhau!
Anh Bính ngồi dậy, thở phào:
- Có cái nón mần chi mà phải viết?
- Răng lại không! Con tôm con tép nhảy lạc bờ bây
giờ cũng nên thương nên nhớ, nói chi tới cái nón. Cứ
viết! Không phải tôi ghen mô...
Không biết đã bao nhiêu lần như thế này, anh Bính
phải ngạc nhiên và tự trách mình chỉ giỏi bông lơn
xuề xoà mà không nghĩ được tận ngọn ngành ngóc ngách
như vợ. Chỉ tại mình suốt ngày lênh đênh ở ngoài khơi.
Đèn là trăng. Chị Bính đặt lời. Chữ của anh Bính
nằm ngổn ngang trên mặt giấy như những hạt đậu đen.
Người vợ tin vào chồng, hình như tin vào cả sự suy
nghĩ của mình, chị cứ nói miên man, lời lẽ tưởng như
đang chuyện trò với một o Quế nào thân nhất...
Khi anh Bính bỏ bút đứng dậy, bức thư mới chạy
được có hai hàng. Lời chị Bính từ nãy tới giờ tưởng
như phải ghi chừng năm trang giấy mới hết. Chị ép đầu
cu Bôn vào ngực, co một chân lên vừa đọc vừa lườm
chồng. Anh Bính đứng cười, vặn lưng răng rắc.
Người chồng theo bạn nghề ra khơi. Gió lặng, đêm bình
yên, chỉ việc nằm ngửa trên sạp thuyền mà nhìn trăng.
ánh trăng mờ ảo, nếu không có những ý nghĩ về người
vợ, về tất cả những hình ảnh đã biến thành kỷ
niệm của tình vợ chồng, về những ngày vui buồn đã
trải qua, thì người ta sẽ ngủ. Anh Bính ngủ không dễ
dàng, len vào trong giấc ngủ của anh có vô số những
tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền, những tiếng hò xa xăm
gợi thương gợi nhớ, có cả bóng của một cái nón
từ bên bờ Nam trôi ra trăng trắng, bồng bềnh.O Quế thương
nhớ ai bên bờ Bắc? Lâu lắm rồi, từ cái ngày o đi
nhổ mạ, mỗi lần đưa bó mạ lên miệng để siết
lạt, người ta lại thấy o hay che bó mạ để nhìn sang
bờ Bắc. Sợi lạt o cắn trong miệng, anh Bính cào muối
ở bên này thấy o đứng tần ngần mà cắn mãi không
xong. Rồi chiều nào cũng thế, lúc anh Bính tắm cho
thằng cu Bôn dưới sông cũng là lúc o Quế ngồi bên tê
sông lấy nón quạt tóc. Quạt mãi, mái tóc của o bay lên
như nhảy múa, vành nón trăng trắng đưa lên đưa xuống
như một bàn tay con người đang vẫy gọi.
Một đêm, anh Bính nói với vợ:
- Nè, ả có quen o Quế không?
- Tôi lớn hơn ả năm tuổi, có quen.
- Tôi đố ả biết răng o lại hay vẫy tôi?
Chị Bính cười bằng hàm răng trắng rất xinh của mình,
rồi nhắm tít mắt lại, ngủ.
Đúng như ý nghĩ của chị Bính. O Quế chẳng vẫy gì
riêng anh Bính. O gửi cử chỉ ấy tới tất cả những
người nào đi bên sông này, khi thì bằng cách quạt nón,
khi thì bằng cách vỗ tay để đuổi một con se sẻ nào
tận trên trời. Dạo ấy là những ngày tháng bảy. Và cũng
những ngày ấy, vào một buổi chiều, vì mải nhìn sang
bờ Bắc, o đã bị bọn cảnh sát tát chúi mũi xuống
bậc bến tắm. Lần đó, cái nón bài thơ hay lộng bông
hoa nhài xứ Huế, chiều chiều o vẫn dùng để quạt vào
mớ tóc thương nhớ ấy, bị đập tung lên, bẹp dúm.
Chị Bính đặt thằng cu Bôn ngủ say rồi cặm cụi
viết tiếp. Cái cối giã vỏ sim làm ghế. Ngọn đèn
lung linh như ông sao non. Riêng da mặt chị ửng hồng vì
ánh đèn, còn thân người chị cho tới thằng cu Bôn,
mặt phản, vại mắm đều nhuộm ánh trăng khuya một màu
xanh rất trong. Cách vài thước ngoài xa là nước biển,
những hạt nước li ti đang nhảy múa dưới chân đá; xa
hơn nữa, bờ bên kia, mũi súng cảm tử của người lính
miền Nam nào đó đang ghếch nòng lên ánh trăng.
- O Quế à, o có biết không, tôi muốn gửi lời qua thăm
o từ mấy tháng trước tề, nhưng hồi đó còn gió nồm
nhiều, biết o có nghe thấu tiếng loa không mà gởi,
chừ hôm sớm đã có gió may thổi về, tôi mới gởi
lời qua thăm o... O Quế à, hai cửa nhà chúng ta nhìn qua
mặt nhau... à, răng o lại làm rơi nón như rứa? Nếu như
đàn ông nhà tôi không vớt được, nó trôi mất ra
biển có tiếc không? Hôm trước cảnh sát đã đập hư
một cái nón của o rồi, chừ lại cái nữa. Cô bác ta
lam lũ, ba lùa cơm chưa được lùa miếng mắm, mần chi
ra tiền mua nón cho o? O Quế à... Nè, o thương nhớ ai chúng
tôi cũng biết rồi? Mà có phải o thương nhớ hết tất
cả mọi người bên ni không?... Chừng mô thống nhất tôi
sẽ chở cháu qua thăm o. Đàn ông nhà tôi chỉ lách vài
mái chèo là tới nơi thôi. O Quế à, dao nào dao chém được
nước, o ở bên nớ đừng có sợ chi hết...Chị Bính
nghĩ nhiều lắm nhưng chỉ viết thêm được có ba dòng,
cộng với hai dòng của anh Bính viết trước là năm.
Thằng cu Bôn ngo ngoe ngoài mép phản như sắp lăn xuống
cát. Mặc nó, nó lăn như thế là sắp đái, đái tồ
một bãi vung vãi xuống cát rồi giấc ngủ lại kéo nó
trở vào.
- O Quế à! O có nhớ khi xưa tôi mắc đưa du kích qua
sông o ở nhà chạy Tây dùm cái quần mới của tôi không?
Hồi đó o còn nhỏ lắm, chỉ đứng tới lưng tôi thôi.
O đi tìm suốt buổi trên xóm Chòi mà không gặp tôi.
Bữa năm tê cái quần nớ mới rách. Mặc nó, tôi lại
nhớ tới o. Hồi đó o còn nhỏ, chưa biết chi mà cảm
ơn, chừ o lớn lên thì lại phải xa cách, tôi không giáp
mặt o mà chuyện trò cho thoả. Mùng hai tháng chín này nhà
tôi sẽ treo lên hai cây cờ. Đàn ông nhà tôi sẽ treo
thế cho nhà o một cây trên ngọn khế cao...
O có biết răng tôi lại gởi thơ cho o không? Rầu chi
cho bằng ông nhà tôi. Eng viết được hai dòng rồi bỏ
đi. Eng làm như o nhớ o thương có một mình eng ở bên
ni.
Nghĩ đến đây chị Bính thấy nóng trên má. Gió bật
bật một góc giấy rồi lùa lên ve vuốt mái tóc chị. Xóm
làng đã ngủ yên, chỉ còn có ngọn đèn nhà chị sáng
trên bãi cát này. Trăng khuya trong vắt. Chị Bính ấm
ức. Bây giờ, ngồi một mình, nỗi ấm ức không chân
không cẳng bỗng lù lù kéo đến... ớ cái người đàn
ông hay lăng nhăng! Ai người ta gởi lòng gởi dạ cho riêng
eng mà eng hay làm rộn lên. Eng đùa với chúng bạn nhưng
eng không nghĩ tới vợ eng những lúc ngồi ngẫm một mình
như ri. Chừ eng đang mần chi? Eng đang nằm ngửa ngực nhìn
ông trăng hay eng đang nhớ tới miền Nam cực khổ? Hay là
eng đang ngồi giữ dùm lái cho bác cả đỡ lưng? O Quế
đâu có để ý gì tới eng... Có phải không o
Quế?Thằng cu Bôn đái xong một bãi, đã lăn vào giữa
phản. Đúng như ý nghĩ của chị Bính. Chị thuộc tính
nó như thuộc tính cha nó vậy. Tự nhiên, đôi mắt chị
cứ phải in mãi vào một bên phản, chỗ trống, cạnh
thằng cu Bôn nơi anh Bính vẫn nằm.
Chị Bính đang nhớ ai? Ông trăng đăm chiêu như đang
nhớ hộ chị. Đôi mắt chị mở to như đôi mắt chiếc
ghe cũ đang nằm lầm lì trên cát nhớ tiếng sóng vỗ rì
rào quyến rũ. Chiều mai anh Bính lại về. Chồng chị
lại đứng rũ lưới và tắm bằng những gáo nước
ngọt từ trong giếng đá do chị gánh ra. Lúc ấy, cu Bôn
sẽ níu gấu quần chị không cho chị gánh cá của cha nó.
Ngày nào cũng ở bên nhau, cũng chuyện trò cãi nhau, mà
chừ bỗng đâm thương đâm nhớ.
- O Quế à, cha thằng Bôn đi biển về hay nói chuyện
gặp ghe bà con ta bên nớ, bà con hỏi chừng mô thì chòm
xóm ta mới gặp nhau. Chừng mô mà bọn cảnh sát không dám
đập nón của o nữa thì nước ta thống nhất. O có nhìn
thấy chớp ngoài biển không? Chớp Mũi Lài vén chài không
kịp, nước ta ở bên nớ cũng sắp chớp lên rồi...
Cho tới khi tiếng gà trên đầu dốc đã gáy sang canh
ba, chị Bính vẫn còn ngồi đây. Bên cạnh chị, thằng
cu Bôn ngủ lăn ngủ lóc. Nước biển xuống nhanh, dập dào
như hờn mát, gió cũng rộn lên, sải dài trên đầu sóng
trắng xoá. Ông trăng nhuần nhị ru con hộ chị. ánh đèn
êm đềm thỉnh thoảng lại len đến hình ảnh của người
chồng âm ấm ở chân răng. Cả hai câu chuyện tâm tình
ấy cứ chen nhau, đuổi nhau, quyện vào nhau tưởng như
không bao giờ dứt. Cũng như không bao giờ dứt được
khi câu chuyện đã trở thành tâm tình.Sáng hôm sau bức
thư của chị Bính chưa kịp gởi tới đài truyền thanh
Hồ Xá thì bên bờ Nam xảy ra một câu chuyện hàng ngày:
O Quế bị bắt. Bị bắt vì tội làm rơi nón xuống sông;
vì cả dòng sông trong xanh kia đã đưa cái nón của chị
dạt sang bờ Bắc.
Bữa cơm chiều chị Bính không ăn. Anh Bính ngồi ăn cơm
với thằng Bôn và khuyên chị Bính không cần gì phải
khóc.
Đêm ấy, trăng lại sáng. Biển mênh mông lại dát vàng
dát bạc. Thằng cu Bôn nhảy nhảy trên cổ anh Bính. Vợ
chồng nhà anh ngồi ngoài mép sóng, nước liếm gót chân.
Khi giọng hò thương nhớ của những o gái Cửa Tùng
vừa cất lên thì loa phóng thanh cũng truyền đi bức thư
của chị Bính. Lời của người bạn gái gửi một người
bạn gái. Tiếng nói vang vọng dồn dập trên khúc sông
cửa biển. O Quế không còn bên ấy nữa, cả hai bờ Nam
Bắc sẽ nghe hộ cho o. Bức thư được nhắc đi nhắc
lại cho tới khuya, khi mặt nước bắt đầu dồn xống
theo ánh trăng thì tiếng loa cùng với những đợt sóng
lan dài ra biển cả.
Đêm ấy, và không biết bao đêm nữa, chị Bính lại
ngồi viết. Chị em trong xóm cùng góp lời với chị. Anh
Bính bày thêm nhiều điều lý lẽ cho chị. Những đêm
trăng muộn, chị ngồi thức với ngọn đèn. Cùng thức
với chị ở bên bờ Nam còn có cả mũi súng "cảm
tử" của tên lính nào đó vẫn ghếch họng trên thân
một cây phi lao, một cái cây ban ngày trông chẳng có gì
đặc biệt nhưng đêm trăng trông nó rất đẹp, mỗi
lần gió thổi mạnh, bóng nó như mớ tóc một người
phụ nữ bị quạt bay lên, óng ả, vồn vã lạ lùng./.
Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi