Đã lâu lắm rồi, tôi chẳng còn cư ngụ nơi ga xép
ấy nữa. Khu xóm ga cũ kỹ có khoảng sân rộng trải
loang lổ nhựa đường và với những tiếng còi tàu lúc
nào cũng nghe như ngái ngủ, vào các buổi sớm hay mỗi
khi chiều xuống. Mỗi chuyến tàu ghé đến ga xép này thường
mang đi, thả xuống độ mươi người với những gánh
gồng tanh nồng mùi cá, mực của vùng biển quê tôi.
Dạo ấy, vợ tôi đột ngột qua đời. Như con thuyền
bão giật mất neo giữa biển đời cơm áo, tôi bèn tạm
nghỉ việc viết lách lâu dài, quay qua "xoay nóng"
về cái ăn cho mấy cha con, bằng cách mở ra một quầy bán
sách trước ga xe lửa. Gọi là quầy cho oai, chớ kỳ
thật chỉ tre lá tuềnh toàng. Tuềnh toàng hệt như đời
tôi và sân ga vậy! Đầu tư ban đầu cho quầy sách đột
xuất này là toàn bộ kho sách đồ sộ của tôi được
chắt mót, giữ gìn từ nhiều năm nay. Có nhiều cuốn
hồi mua được nó, tôi mừng cứ ngồi nhìn ngắm, vuốt
ve đến cả quên ăn, bỏ ngủ. Giờ thì tôi bán tất vì
sự sống còn trước mắt của cảnh "gà trống nuôi
con". Hy vọng rồi các sách mang đầy kỷ niệm của
tôi sẽ tìm được những chủ mua yêu quý nó như là tôi
vậy.
Đợt đầu, sách bán khá chạy. Có chút đỉnh tiền,
để đa dạng hoá quầy sách, tôi lôi về hàng loạt
truyện tranh, giăng đầy trên mấy nẹp tre. Vùng tôi nghèo
nên sau mấy hôm xôn xao ban đầu, người mua đến thưa
dần bởi túi tiền có hạn. Sách thì ngày một ố vàng,
xuống cấp thêm vì giăng phơi cho gió dầu nắng dãi. Để
vớt vát lại phần nào những sách đã đến hồi cong bìa,
gẫy gáy, tôi bèn phân xuống loại hai, cho các em thuê đọc
tại chỗ trong khi chờ tàu. Nhờ chuyển hướng phục
vụ kịp thời này, các em đến quầy tôi ngày lại một
đông lên. Và cũng dịp này, tôi mới quen em - người độc
giả nhỏ tuổi mà tôi không bao giờ quên được!
Một chiều, khi tôi đang cặm cụi sắp xếp quầy thì
một cơn gió bất ngờ thốc tới. Gặp quầy sách tuềnh
toàng của tôi, nó xoáy thẳng vào và cuộn tung lên
trời tất cả những gì có thể. Khi kịp nhận ra sự
"viếng thăm đường đột" này, sách báo của tôi
đã lẫn vào bụi mù, lớp bay trắng trời, lớp đang
hạ dần độ cao rơi xuống khắp khu vực! Tôi chỉ còn
biết dụi mắt kêu trời và đón lượm những thứ rớt
gần quầy thôi. Kiểm lại, kể cả số những người
hảo tâm lượm giúp, sách báo của tôi bị cơn lốc xoáy
vừa rồi "phát không" đi quá nửa! Nhất là
truyện tranh, bộ thì mất đầu, bộ lại mất đuôi,
nếu còn đầu đuôi thì vắng đi khúc giữa.
Hôm sau, giữa lúc tôi đang bần thần với những
thiệt hại do cơn lốc gây ra thì... bỗng có tiếng động
bên hông quầy:
- Thưa..., sách của chú gió bay nè!
Tôi quay lại, một thằng bé chừng mười hai, mười
ba tuổi đang nhoẻn miệng cười với chồng truyện trên
tay.
- Ơ... cám... cám ơn cháu! - Tôi vô cùng mừng rỡ - Cháu
lượm hôm qua phải không?
- Dạ. Lượm xong, tàu chạy mất, nên... cháu phải đem
về nhà.
Tôi xem lại. Đúng là mười mấy cuốn trong loạt sách
của tôi. Hầu hết là truyện tranh. Trong đó có những
cuốn ráp vào, giúp tôi khỏi phải vứt đi khá nhiều
bộ sách. Cám ơn nhiều! Việc em không giữ chúng để đọc
chơi rồi bỏ là điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và
cảm động, nhất là khi em đã mang về đến nhà.
Bây giờ thì em sốt sắng giúp tôi xếp các sách vừa
mang đến vào quầy. Theo cách xếp, hoá ra em cũng khá
quen thuộc với truyện tranh ở quầy tôi. Không chừng em
là độc giả thường xuyên ngay từ những ngày đầu cho
thuê nữa đấy. Điều đó nghĩa là em đã tốn không ít
tiền vào quầy sách của tôi.
- Cháu có... hay đọc truyện không? - Tôi gợi ý.
Thằng bé như không thể giấu được chiếc răng
khểnh của mình, cười bẽn lẽn:
- Thưa có. Cháu thích xem truyện... tranh.
Tôi xoa đầu em:
- Được rồi! Từ nay, chú cho phép cháu đọc tất
cả những truyện thiếu nhi có trong quầy chú mà khỏi
phải trả tiền. Đồng ý không?
Nó vòng tay, cúi đầu:
- Cháu... xin cám ơn chú.
Tôi bèn đưa em cuốn mở đầu của bộ truyện tranh
hay nhất mà tôi mới mua. Em lễ phép cám ơn và đến
ngồi đọc nơi băng đợi tàu. Đứng trong quầy nhìn
kỹ, bỗng dưng tôi nhận ra cái dáng quen thuộc của em.
Phải rồi! Em đúng là độc giả thường xuyên ở quầy
sách của tôi. Với dáng ngồi nghiêm túc như "ông
cụ non" ấy, thái độ đọc khi cười mỉm, lúc chau
mày tuy lặng lẽ nhưng đồng cảm với nhân vật ấy...
dù hôm nay em thiếu cái bị cói đặt dưới chân, song tôi
vẫn nhớ có lần đã từ chối tờ hai trăm vừa rách,
vừa ướt em lôi từ trong ấy ra. Em đã gửi lại cái
bị cói cho tôi, chạy đâu đó kiếm về đưa tờ hai trăm
khác. Những tờ hai trăm kiếm được ở tuổi em chắc cũng
chẳng dễ dàng gì!
Từ ấy, ngày nào như ngày nào, trước lúc còi tàu ngược
ga vang lên chừng vài mươi phút, em với chiếc bị cói
đeo bên mình lại rụt rè đến đọc nơi quầy sách
của tôi. Có nhiều hôm em phụ giúp tôi những việc
lặt vặt trong quầy, để khi đọc không trả tiền cho
bớt phần áy náy. Và cũng từ ấy, em thoắt đến,
thoắt đi theo những tiếng còi tàu, còn tôi, chẳng lời
lãi bao nhiêu, song lúc nào cũng bận rộn bán, thuê như
người nuôi con mọn. Do vậy, tuy quen nhau đã lâu nhưng tôi
vẫn chưa tỏ tường quê quán cũng như việc làm của
em. Chỉ mang máng biết rằng em rất đông anh em qua
những thứ quà em tha về trong bị cói.
Một hôm, có thằng bé lạ thuê đọc tập truyện
tranh, tôi tìm hoài chẳng thấy. Cuối cùng, sực nhớ đã
đưa em đang ngồi đọc nơi băng đợi tàu. Thấy thằng
bé mới đến thuê này ăn vận ngon lành, hứa hẹn sau là
khách sộp, nên tôi nhỏ nhẹ:
- Truyện đó, có cậu bé ngồi cuối băng tàu đang đọc.
Chờ nó trả sách, lên tàu, chú sẽ cho thuê.
Nghe thế, thằng này vội sấn sổ đến, giật phăng
cuốn sách trong tay em, giọng kẻ cả:
- Biết gì mà cũng bày đặt đọc, xem! Đồ không
biết chữ!
Sau cái giật thô bạo của thằng kia là tiếng còi tàu.
Em nhìn tôi đầy thẹn thùng rồi lao vào phía cửa ga.
Chẳng mấy chốc, chiếc bị cói cần mẫn bên hông em đã
khuất chìm sau những gánh gồng vội vã.
- Hoá ra em vẫn chưa biết đọc ư? - Tôi lẩm bẩm, bàng
hoàng.
Thằng bé vừa giật sách bĩu môi:
- Nó chỉ biết có mỗi chữ o, nhờ quả trứng gà thôi!
Sau buổi chiều đó, em chẳng bao giờ ghé lại quầy tôi.
Cứ mỗi lần có tiếng còi tàu vang lên, tôi lại bỏ
cả bán mua để dõi mắt tìm em. Nhưng thật là hoài công...!
Và... sao lại như thế, em ơi???
Đã lâu lắm rồi, tôi chẳng về lại nơi ga xép ấy
nữa! Khu ga xép cũ kỹ với những tiếng còi tàu nghe
cứ nghèn nghẹn, buồn buồn kể từ dạo vắng bóng em.
Quầy sách chẳng hiểu sao cứ thưa vắng dần. Do mua
lỗ, bán hao và miệng ăn mấy cha con nên rốt cuộc
rồi, chính tôi cũng phải dời đi nơi khác kiếm sống.
Thế là vĩnh viễn tôi không còn cơ hội tìm gặp lại
em.
Bây giờ cứ mỗi lần nghe tiếng còi tàu mơ hồ
vọng về từ đâu đó hay tiếng trống gọi ngày khai trường,
tôi lại nhớ đến em. Nhớ vô cùng! Em giờ đây đang
lận đận phương trời nào hay vẫn còn ngược xuôi nơi
ga tàu quê cũ? Dù ở đâu, mong rằng lúc nào em cũng
mạnh tay, khỏe chân để giúp đỡ gia đình, và nhất là...
đã biết đọc chữ rồi để em còn xem được những dòng
vừa nhắn gửi của tôi./.
Lê Nguyên Ngữ