Bão biển
Buổi chiều, không hiểu sao, bầy chim biển chui cả vào
lều bạt. Chúng rúc vào chăn, chen lấn với lính. Căn
lều bạt trở nên chật chội, ướt át và hôi mù như
ổ chó đẻ. Trên tầng giường, Hai ùm nằm ngáy như
sấm. Có lẽ mấy hôm liền căng thẳng vì chuyện con
lợn, cu cậu mệt rã rượi. Tôi cũng thấy buồn ngủ.
Hai mắt nặng trĩu, cứ luôn chực nhíp lại.
Tiếng động lịch kịch dưới chân sàn làm tôi thức
giấc. Hình như có ai gõ gõ mái chèo vào cột lều. Tôi
nhìn qua mặt sàn. Hoá ra là chính trị viên Thuận. Anh
vừa đánh xuồng vào.
- Này, ra tàu ngay! Ra tàu ngay đi!
- Có chuyện gì thế, bố Thuận?
- Không thấy gì cả à? Nhìn kia kìa!
Nói rồi, Thuận chỉ mống ra biển. Mặt biển lặng
tờ như cái ao làng. Phía chân trời ậc lên một tầng mây
đỏ sọc như màu máu chó. Biển tanh ngặt. Chết cha. Bão
rồi! Thảo nào mà lũ chim biển chui hết vào lều, rúc
cả vào chăn lính để ẩn nấp. Vậy mà sao mình lại không
để ý nhỉ?
Cánh lính vận chuyển vũ khí, đồ đạc ra tàu. Căn
lều vẫn tồng tềnh, trống hoác, nhưng đến khi di
chuyển mới hay lính ta cũng giàu có lắm, chứ chẳng
phải ít của. Ngổn ngang trăm thứ bà giằn, cứ lỉnh cà
lỉnh kỉnh. Nhặt cái này lại thấy tiếc cái kia. Không
rõ đến chuyến xuồng thứ mấy thì biển đã cuồn lên
những đợt sóng lớn. Mái chèo nặng trịch, bì ra. Dường
như cái xuồng không còn tuân theo mái chèo của lính
nữa. Khi mũi xuồng vừa chạm thành tàu, Hai ùm chợt bàng
hoàng kêu lên:
- Thôi chết tôi rồi! Chết rồi!
- Có chuyện gì thế?
- Còn ba-lô và đồ đạc của thằng Thiêm!ừ, phải
rồi! Đúng là còn "tài sản" của Thiêm. Vậy mà
tại sao cả mấy thằng đều không để ý. Mà cũng
phải thôi. Cái bát sắt, đôi đũa và chiếc ba lô lại
treo mãi trên nóc bạt. Trong lúc cuống cuồng vội vã, ai
còn để ý đến cái nóc bạt làm gì. Tôi bảo Hai:- Không
sao đâu, Hai ạ. Mình thấy mọi thứ chằng buộc cẩn
thận lắm!
- Đâu có. Em ngoắc cái ba-lô lên con sỏ sắt cọc
lều chứ nào có buộc chằng gì. Thằng Thiêm chỉ có
mỗi chút đó thôi. Nếu mất, biết nói gì với mẹ nó,
cực thế. Vả lại, còn một tí tư trang ấy, cũng có
thể cho vào cái tiểu sành, đắp cho nó ngôi mộ. Vẫn còn
chút gì của nó để có thể thắp cho nó một nén hương
- Hai nói như van vỉ. - Anh lên tàu đi. Em quay lại...
- Không được đâu. Không kịp nữa rồi!
- Thôi, đừng lằng nhằng nữa! Anh lên tàu đi!
- Hay để mình cùng quay lại...
- Không được! - Hai quắc mắt lên, mặt tím ngắt. -
Đã bảo đừng có lằng nhằng nữa. Có ông anh chỉ
nặng gánh thêm chứ béo bở gì. Lên tàu!
Hai nói như ra lệnh, rồi ghì xuồng cao-su. Con tàu chao
lắc. Chiếc xuồng lại càng chao lắc dữ dội. Nhễ
nhại lắm, tôi mới bám được chiếc thang dây, leo lên
tàu.
- Hai, lên tàu đi! - Tôi nói như khóc.
- Không được! Không thể được! Nhanh thôi mà. Em
sẽ quay lại ngay. Không sao đâu!
Nói rồi, Hai chém nước lao đi. Biển đã cuồn lên
những đợt sóng lừng lững như những tấm lưng trâu.
Chiếc xuồng cao-su của Hai mất hút trong sóng. Con tàu
bắt đầu òng ọc nhổ neo. Tôi gào lên:
- Còn thằng Hai. Anh Thuận ơi, còn thằng Hai nữa!
- Còn người! Còn một người nữa!
Tiếng lính nhao nhao. Gương mặt Thuận bỗng trắng
bệch như bụng cá chết. Anh khoát tay ra hiệu cho thuyền
trưởng dừng lại. Nhưng con tàu không thể dừng được,
vẫn phải nhổ neo, bởi chỉ chậm chút nữa, con tàu
sẽ rứt đứt neo và nó có thể sẽ bị sóng ném vào
ghềnh đá san hô như một viên sỏi. Biển tối mù mịt.
Bây giờ thì không chỉ chiếc xuồng Hai mà cả cái lều
bạt cũng không còn thấy đâu nữa. Con tàu quần lượn
quanh đảo để tìm Hai. Nhưng rồi vô vọng và bất
lực. Với sức sóng này, làm sao Hai có thể đánh xuồng
đi được. Ngay cả con tàu mấy ngàn tấn này cũng chỉ
như một chiếc lá mỏng mảnh. Loanh quanh một hồi, rồi
con tàu cũng đành phải gối sóng để tránh bão. Tránh
ngay trên biển bão. Thuận trực tiếp cầm lái bên cạnh
thuyền trưởng Hoà. Anh vừa lái, vừa ồ ồ khóc như
một đứa trẻ. Kinh nghiệm bao nhiêu năm đi biển cho anh
biết số phận bi thảm của Hai ùm sẽ kết cục ra sao?
Anh vừa tránh sóng, vừa cố lượn qua những vùng biển
mà anh đoán cái xuồng của Hai có thể trôi dạt tới.
Từng đợt sóng bạc đầu đổ tràn qua mặt boong. Có
trận sóng phủ lên cả nóc đài chỉ huy. Chân vịt khua
reng rẻng trong không khí. Mặt biển tối sầm. Gió đánh
thốc từng đám mây trắng đục xuống mặt nước đen
sịt. Tôi lăn lông lốc trên sàn tàu. Đám lính trẻ cũng
nhào lộn trong những bãi nôn tanh lợm. Rồi rầm một
tiếng dữ dội. Tôi thấy mình bay vút như một viên đạn,
đầu lao choác vào thành tàu tê dại. Nước biển mặn
chát trùm lên người tôi. Vỡ tàu rồi! Trong đầu tôi
chợt loé lên một ý nghĩ kinh hoàng như vậy. Thế là
hết. Hết tất thảy. Tôi thấy mình mụ đi. Trong
khoảnh khắc âm âm u u, tôi còn kịp nhận ra mình cùng
với con tàu lao hun hút xuống đáy biển tối thẳm và
lạnh ngắt...
Biển mặn
- ồ anh ấy đã tỉnh rồi kìa!- Tỉnh rồi! May quá!
Chút nữa lại mang tiếng đảo chìm giết chết một thi
sĩ tài năng đang hứa hẹn! - Tư Xồm cười dủm dỉm. -
Huy này, mày xem vết thương anh ấy có nguy hiểm không?
- Không sao. Bố ấy chỉ bị choáng khi va đập mạnh.
Còn xa ruột lắm!
- Bây giờ thì ông anh có muốn chết cũng đếch chết
được. - Tư Xồm lại cười. - Này, giá như ông anh
ngỏm béng luôn ở đảo chìm này có khi lại hay đấy nhé.
Biết đâu có người lại thấy tiếc ông anh, lại nói
ông anh là một tài năng đang phát triển rực rỡ. Còn
ông anh sống ý à... em nói thật, đại ca đừng tự ái
nhé, ông anh cũng nhem nhuốc lắm, hoàn cảnh lắm, chẳng
hơn đếch gì lính nhọ đít chúng em...
Tôi chống tay vào sàn tàu, ngồi dậy. Đầu óc cứ
ong ong, váng vất. Bụng vẫn cồn cào, thoáng đặc, thoáng
rỗng. May mà con tàu không bị vỡ. Có lẽ chiều qua nó
lao vào một vách sóng nào đó.
- Hai đâu? - Tôi hỏi.
- Tàu đang đi tìm nó mà! Đang về đảo chìm đấy..
- Thế hôm qua đi những đâu?
- Xa. Tàu tránh bão thì cứ phải gối sóng, chạy
ngoắt ngoéo chữ chi. Chạy xa lắm, cách đảo hàng trăm
dặm biển.
- Hai ơi! - Tôi thoáng kêu lên.
- Không sao đâu, anh Khoa ạ!. Có lẽ nó về lều bạt
rồi. Bố Thuận bảo, nếu nó tới được lều, cột
chặt mình vào cọc lều thì may ra có thể thoát!
- Nhưng đã chắc gì nó vào được lều bạt?
- Thì chính anh bảo chiều qua nó đánh xuồng vào lều
bạt mà...
- Không! Nó trở lại lều để cứu đồ đạc của
thằng Thiêm. ừ, mà tại sao chiều qua mình lại không kiên
quyết giữ nó lại...
- Không sao đâu anh Khoa ạ. Thằng này như qủy biển.
Nó bơi bợm lắm. Giả sử chiều qua, cu cậu không vào
được lều, thì cứ ôm chặt cái xuồng cao-su, quấn người
vào dây xuồng là cũng không thể chết được. Chúng ta
sẽ tìm thấy nó...
Tôi gượng leo lên boong. Mặt biển bạc phếch. Những
đám mây bị chẻ tướp đuôi ngựa, bay vun vút như khói.
áp thấp nhiệt đới nảy sinh từ quần đảo bão tố này
thường xảy ra bất ngờ và kết thúc cũng rất nhanh.
Khi vào đến đất liền, có thể nó quẫy lên thành
những trận bão lớn. Còn ở đây, biển đang dần trở
lại cái dáng vẻ âm u bí hiểm muôn đời của nó. Con tàu
vẫn đang xé sóng lao về phía đảo chìm. ở chân trời
xa, đã thấy thấp thoáng những bóng chim biển bay nháo
nhác.
Mãi đến sâm sẩm tối, con tàu mới buông được neo.
Chính trị viên Thuận và tôi cùng với Tư Xồm đánh
xuồng vào lều bạt. Nhễ nhại lắm, chúng tôi mới vượt
qua được mép san hô. Vùng đảo hoang lạnh một màu khai
thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm
bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những
rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá
khổng lồ đã bị rỉa hết thịt.
- Có người! Thằng Hai! Đúng là thằng Hai kia rồi!
Anh nhìn rõ không?
Tư Xồm reo to, hồ hởi như người bắt được của.
Chúng tôi thấy nhẹ bẫng người, nhìn theo ngón tay Tư.
Trong ráng chiều nhập nhoạng, một bóng đen trùi trũi đang
lom khom ngồi trước cửa lều... Tư quát lên:
- Này...!
Bóng đen thoáng rùng mình quay lại. Tôi bỗng sởn tóc
gáy. Có tiếng đập đánh rào một cái. Rồi bóng đen
bay chéo qua đầu chúng tôi, thả xuống đảo chìm một
tiếng kêu khàn đặc, khê rợn:
- Goà...goà...
Thì ra đó chỉ là một con ó biển. Tôi lập bập bám
thang dây, leo lên lều. Căn lều trống hoác, ướt
nhoẹt. Đũa bát của Thiêm đã bị gió ném đi. Nhưng
chiếc ba-lô lép kẹp sũng nước thì vẫn lủng lẳng
chao lắc trên cái kèo sắt cột lều. Như thế có nghĩa
là Hai không vào được lều bạt.
- Hai ơi!
Tư Xồm bỗng nấc lên. Thế là lại thêm một người
lính nữa chết ở đảo chìm. Người đó tại sao không
phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo chìm? Tôi
bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy
tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy
cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt,
phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát.
Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại
mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển
mặn như ở đảo chìm. Mặn như máu.../.
(Trần Đăng Khoa)
Trường Sa tháng 7/1980