Tôi không ngờ, người mà tôi sẽ viết bản báo công
để chọn phong anh hùng là thằng bạn của tôi, thằng
Tấn. Bạn cùng xóm, bạn từ lớp một đến lớp ba trường
làng. Hai đứa xa nhau từ khi tôi học cấp hai, còn nó
ở lại nhà với nghề mộc, nghề cha truyền con nối và
chơi thì chơi với bạn chăn trâu hàng xóm. Tuổi mười
bốn, mười lăm mà nó làm được khối tiền. Khéo tay,
nó lượm gỗ vụn, đục đẽo làm những chiếc ghế
nhỏ như cái cốc, cái bàn nhỏ như bàn tay, làm cả bộ
salon nhỏ xíu, khách hàng ai cũng thích mua để trưng tủ
kiếng. Hết cấp hai, tôi lên tỉnh, từ nhà trường tôi
ra thẳng chiến khu. Còn nó, cũng năm ấy (không hẹn) nó
ra đi từ trại mộc. ấy là năm 1950, hai đứa cùng
tuổi mười tám.- Mầy viết báo công cho tao hả Quang?
Vẫn cái giọng xuề xoà, thân mật "mầy-
tao".
- Được không? Hay là chọn người văn hay chữ tốt hơn
tao?
- Được mầy là tao mừng. Tao thấy mấy thằng sắp làm
anh hùng như tao, thằng nào cũng khổ. Nhà báo nhà văn
tụi mầy tra hỏi còn hơn công an hỏi cung, hỏi cả cái
thời còn ở truồng, hỏi ở nhà ăn cái gì nữa. Cực hơn
đánh giặc! Với mầy thì tao khỏi nói, ăn cá chốt hay
cá linh, ăn đọt xoài chấm mắm hay bông điên điển làm
như bánh xèo, mầy biết ráo. Đánh giặc bằng ống
thụt, tắm sông, nhảy từ lan can cầu xuống, hay leo
dừa, leo xoài, lật đất cày bắt dế hay đá cá lia
thia, cái gì tao chơi mầy cũng chơi, khỏi hỏi, khỏi nói,
được mầy là tao khỏe.
Một đôi câu của Tấn đủ gợi lên trong tôi cả
một thời thơ ấu. Tôi cảm thấy rạo rực, muốn cầm
viết, viết ngay. Viết về Tấn nhưng chan chứa tâm hồn
của tôi.
- Viết mầy là thằng Tấn trọc được không?
- Được, mầy muốn viết gì thì viết.
Gọi nó là Tấn trọc, vì ở trường có đến ba
thằng Tấn. Tấn đen, Tấn sún, nó là Tấn trọc. Chẳng
hiểu sao, từ lớp một đến lớp hai, cái đầu của nó
lúc nào cũng trọc lóc, đầy u với nhọt. Bù lại cái
đầu u nần lam nham thuốc xanh thuốc đỏ, nó có cặp
mắt sáng, tròng trắng rất trắng, tròng đen rất đen
với nụ cười hiền lành. Đến năm lớp ba, nhờ một
người Tàu bán tương chỉ cho một bài thuốc gia
truyền: cháo lươn với đậu xanh, vừa mát vừa xổ
chất độc. Chỉ có vậy mà cái đầu nó lành lặn lúc
nào chẳng ai hay biết. Sau, dù có một mái tóc rậm đen,
nó vẫn mang danh là Tấn trọc.
Bây giờ, ngồi trước mặt tôi là một ngời đàn ông
hơn ba mươi, dạn dày chinh chiến, rắn chắc trong bộ quân
phục mà cách ăn mặc trông không được nghiêm chỉnh
cho lắm, hơi xốc xếch, xuyềnh xoàng.
Chiến công nổi bật của nó là trận đánh vừa
chận đứng vừa đánh tan một cánh quân Mỹ đợt hai năm
Mậu Thân (1968) trong một làng vùng ngoại ô Sài Gòn.
Đơn vị nó nằm trong một vị trí bất lợi. Một bên là
quốc lộ, một bên là con sông. Trên quốc lộ là xe tăng,
là thiết giáp; dưới sông là tàu chiến, trên trời là
trực thăng. Xa hơn là dàn pháo của căn cứ "Bình Chánh,
dàn pháo được mệnh danh là "dàn nhạc Tân Tây
Lan". Đơn vị nó hơn một trăm tay súng nằm trong
cụm vườn thưa, lấy mương nước, gốc cây làm công
sự.
Giữa lúc hiểm nghèo ấy, Tấn đeo B41 leo lên ngọn
dừa, lần đầu tiên trong chiến tranh, Tấn là người
chiến sĩ dùng B41 từ trên ngọn dừa bắn hạ trực thăng.
Chiếc trực thăng hình con cá lẹp, như con diều hâu
sắt vừa quay cánh vừa sà thấp xuống, cha kịp phóng
rốc két thì bùng lên thành một đám cháy. Bầy trực thăng
hốt hoảng, vội vã dạt ra xa. Chiến sĩ ta đồng loạt
xông lên với tiếng reo hò. Tàu chiến bị trúng đạn
phụt lửa, xe tăng bị B41 bốc cháy mềm như sáp. Trận
đánh im tiếng súng vừa lúc trời sụp tối.
Trận đánh của Tấn tôi viết thật tỉ mỉ, tôi nghĩ,
chỉ cần một trận đánh ấy đủ cho Tấn xứng đáng là
anh hùng. Cho nên những phần khác về cuộc đời của nó,
tôi chỉ lướt qua. Vậy là đêm đêm, người viết báo
công và những vị sắp là anh hùng cùng nhau làm việc không
nghỉ ngơi, hỏi rồi ghi, ghi rồi lại hỏi dưới ánh sáng
của ngọn đèn chai, còn hai đứa tôi thì ra trảng, nhìn
trăng sao, hóng gió, uống rượu và nhắc chuyện đời.
- Sao? Có viết lại chuyện cô ở Thanh Hóa không?
Tôi nhắc lại chuyện cũ, Tấn ngửa mặt cười.
- Hồi còn đóng quân ở Thanh Hóa có một cô mê tao. Cô
ta bảo: "Em xấu gái, em biết anh chẳng lấy em làm
vợ đâu! Em chỉ có chỗ này là đẹp thôi". Cô ta
mở nút áo cho mình xem bộ ngực, đẹp thiệt. Không sao
dằn lòng được, nhưng mình muốn đến thì cô ta xê ra.
"Em sợ". "Sợ gì?" "Em muốn hiến
cho anh, nhng sợ anh phản tỉnh". "Không. Không.
Anh không phản tỉnh đâu mà?!" "Thôi, thôi, bây
giờ thì nói thế, chứ đến lúc chỉnh huấn, cái đèn
lù mù, chuyện chi mà các anh không nói, càng nói nhiều càng
tiến bộ, chết là chết chúng em. ở bên làng, có một
cô như em, bị anh bộ đội phản tỉnh. Xấu hổ, cô
bỏ làng đi mất!". Hôm rồi, nhân dịp đi mua bò cho
đơn vị, mình trở lại Thanh tìm cô ta, lần này mình
nhất định xin hỏi làm vợ. Về đến làng thì biết cô
ta đã có chồng rồi. Cô ta khóc và trách: "Sao hồi
ấy anh không bảo với em!" Trở về, đánh một đàn
bò mấy chục con qua ga Hàng Cỏ, mấy cô gái tóc quăn đứng
bên đờng kêu hỏi: "Anh Bộ đội ơi, anh dẫn bò đi
đâu mà nhiều thế?" Đang buồn, đang quạu, lại
mắc cỡ, mình đốp lại: "Dẫn bò đi phidê!"
Mấy cô nhìn lại mình, hai con mắt như hai ngọn đèn
pha...Kể xong, Tấn bỗng nhảy ùm xuống suối, tôi hốt
hoảng:
- Mầy làm gì vậy?
- Tắm cho đỡ buồn.
Nhớ lại, tôi hỏi:
- Bây giờ còn tắm cho đỡ buồn nữa không, cha?
- Đêm nào mà không xối ào ào cho đỡ buồn.
- Vợ con tính sao?
- Thấy ai, gặp ai mà tính...
Mấy ngày sau, bản viết của tôi đợc trả lại kèm
theo lời phê: "...Viết về thành tích khá sinh động,
nhưng còn thiếu phần lý lịch. Phải viết rõ vì động
cơ gì mà hành động. Không thể không bị bóc lột, không
thể không căm thù đế quốc phong kiến. Điều này cần
phải được đào sâu".
Đọc xong tôi đổ mồ hôi trán. Thế là tôi bắt đầu
hành hạ thằng bạn tôi:
- Nhớ lại xem. Mầy bị bóc lột như thế nào? Mầy căm
thù đế quốc phong kiến ra sao? Kể lại cho tao viết.
- Tao thì mầy biết rồi, hỏi gì nữa? Nhưng có một
thời gian mình xa nhau.
- Thì cũng vậy, mầy đi học, tao làm thợ mộc với
ông già.
- Động cơ nào mầy đi theo cách mạng?
- Tới tuổi quân dịch, không đi để tụi nó bắt lính,
cầm súng bắn lại bà con à?
- Được, được, nhưng phải nhớ kỹ, phải đào sâu
thêm, bị bóc lột ra sao?
Tấn thở dài:
- Tao là lính, tao chỉ biết đánh giặc - còn mầy là
thằng viết, mầy phải nghĩ, viết sao nghe được thì
viết.
Thật đau đầu! A, tôi nhớ ra rồi. Hồi nhỏ cái đầu
của nó hay bị u nhọt. Tôi viết, hồi nhỏ, gia đình
bị bóc lột, nghèo khổ, không đủ ăn, nên thường hay
bệnh hoạn. Nhớ nó hay đi chăn trâu, tôi viết, có lúc
nó phải đi chăn trâu cho chủ, cơm ăn không đủ no, đêm
phải ngủ ngoài chòi, ma gió. Còn cái đoạn nó khéo tay
làm ra khối tiền thì tôi xóa sạch.
- Cần đọc lại cho mầy nghe không Tấn?
- Khỏi. Tao có sao mầy cứ viết vậy là được!
*
* *
Sau đó trong đợt bình bầu, Tấn được phong danh
hiệu anh hùng.
Năm sau, tôi và bạn bè tình cờ đi qua đơn vị của
nó. Tôi rủ:
- Ghé thằng bạn anh hùng tao chơi. Thằng điệu đời
lắm.
- Nhắm có gì không, tụi tao đang đói.
- Tiệc tùng không dám hứa, nhưng ít nhất cũng có
một con thịt, không nai cũng dộc, tệ lắm thì cũng
một con cheo.
- Vậy thì đi!
Vào đến trạm gác đầu tiên, được tin Tấn đang
họp. Từ trạm gác đến hội trường không xa lắm.
Hội trường lợp bằng lá trung quân, không có vách,
trống huơ trống hốc, đứng từ trạm gác nhìn vào tôi
thấy Tấn ngồi trên hàng ghế chủ tịch đoàn. Vừa
nhắn tin, tôi vừa đứng thấp thoáng cho Tấn thấy. Từ
trên ghế chủ tịch đoàn, nó nhờ một người lính
nhắn ra chờ.
Chúng tôi ngồi bệt xuống đất lưng dựa lên ba lô,
hút thuốc, ngồi chờ. Hút hết điếu này lại mồi qua
điếu khác, tôi chờ đến phát ngượng với bạn bè.
Một cái nhướng mày:
- Sao, chờ hay đi?
- Ráng chút.
Từ hội trường vang lên tiếng vỗ tay. Tấn bước
ra:
- Tấn! - Tôi như reo lên, rối rít giới thiệu Tấn,
đây là phóng viên nhà báo, phóng viên thông tấn xã, và
đây là nhà thơ.
- Chào các đồng chí!
Tấn hơi cúi người, bắt tay từng người, trong nháy
mắt, tôi nhận ra sự khác lạ của anh qua phong cách.
Trịnh trọng trong bộ quân phục thẳng thớm, lạ với
con mắt của tôi, khó chịu hơn là sự trịnh trọng
trong cách bắt tay từng người, trịnh trọng mà xa cách.
Còn tôi thì anh như không thấy. Có lẽ anh sợ tôi vồ
vập, sợ những cử chỉ thân mật quá của tôi.
- Các đồng chí đến làm việc với đơn vị? Cạnh bên
anh lại có một chiến sĩ bảo vệ, với khẩu A.K. Ba
thằng bạn cùng mở tròn mắt dồn lên mặt tôi. Tôi ngượng
đến muốn độn thổ.
- Sẵn đi qua, tụi này ghé thăm.
- Vậy hả? Tiếc quá, đơn vị đang họp.
Vừa lúc, trong hội trường có tiếng vỗ tay. Tấn
vội cúi người chào:
- Các đồng chí ngồi chơi.
Lại cúi người trịnh trọng bắt tay, lần này thì
Tấn không quên bắt tay tôi trước khi quay vào hội trường.
Từ đó, không đến nỗi giận, nhưng tôi buồn. Dù không
tới lui hay thư từ, tôi vẫn nghe và dõi theo từng bước
đi của Tấn. Từ trung úy thẳng lên đại úy, Tấn thường
được các cơ quan mời đến báo cáo điển hình, đi đâu
cũng tiền hô hậu ủng. Hội nghị nào có Tấn, Tấn cũng
ngồi ghế chủ tịch, ngực lấp lánh huân chương. Nghe
đến anh hùng Trần Đình Tấn là tiếng vỗ tay rộ lên.
Bẵng đi hơn năm, nhớ là mùa hè năm 1971, tôi đang
bị say nắng dưới chòm cây tai nghé bên rìa trảng. Có
tay ai đập khe khẽ trên đầu võng, giật mình mở mắt,
tôi không tin, đa tay dụi mắt.
- Mầy còn sống hở Quang?
- Nó, người bạn anh hùng.
- Chết cũng khó!
(Những năm chiến tranh ác liệt, gặp nhau, hỏi thăm
người nào đó, không hỏi mạnh khỏe mà hỏi sống hay
chết, thành thói quen).
- Dậy đi... - Nó vừa bảo vừa đưa tay rút dây võng
bắt tôi phải bật dậy.
- Bếp đâu, củi đâu? Tao nấu nước. Trà củ măng,
thuốc Rubi chiến lợi phẩm - Tấn vừa nói vừa mở
thắt lng treo lên chạc ba cây.
- Rượu đế với khô sặt. Chiều nay tao ở đây với
mầy.
- Khô sặt ?
- Được không?
- Đâu mầy có?
- Bên vợ.
Tôi nói như hét:
- Mầy có vợ?
- Chẳng lẽ ở góa?
- Ai? ở đâu?
- ấy, từ từ rồi tao kể.Thằng bạn anh hùng của tôi,
nó vẫn như xưa, vẫn là thằng Tấn, vẫn xuề xoà,
vẫn cởi mở, tôi bỗng ước gì có mấy thằng bạn cùng
đường năm trớc cũng có mặt ở đây. "Tao nói có
sai đâu, nó rất điệu đời mà!".
Sau một tuần trà, vừa ném cái tàn thuốc, nó xề
lại bếp lửa, đặt con khô sặt lên than hồng.
Ôi, chẳng biết bao nhiêu năm rồi tôi mới nghe lại cái
mùi thơm của con khô quê hương. Chúng tôi lại nhắc đến
mùa nớc nổi, mùa giăng câu, mùa đặt lọp đặt lờ trên
đồng nước.
Hai đứa hai chiếc võng mắc song song, giữa là chiếc
bàn nhỏ được trải bằng chiếc ni lông màu lá. Trên bàn:
bình toong rượu Tấn mang tới, hai cái chén mắt trâu, ba
con khô sặt bằng bàn tay trên tờ bản thảo. Vài giọt
nắng rơi qua kẽ lá, râm ran tiếng ve rừng, và tiếng
rền rĩ ì ầm của phản lực quần đảo trên bầu
trời.
- Mầy là nhà báo, nhà văn, tao nghĩ là mầy không
giận tao. Mới nghe sẽ được tuyển làm anh hùng, thằng
nào không khoái. Khi được phong anh hùng rồi, tao thấy
khổ hơn làm dâu trăm họ. Có lúc tao nghĩ, tao không còn
là tao nữa, tao như thằng nào vậy!
Tấn dừng lại, mở tròn hai con mắt. Tôi bỗng nhớ
hai con mắt học trò của nó ngày xưa.
- Ngày thường, tao cười ha hả, thích thì cười,
chẳng ai nói. Bây giờ tao cười như vậy thì có người
nhắc nhở, anh hùng đừng cười như vậy. Vậy còn
nhẹ, có người nói sau lưng: "Anh hùng gì mà cười
nghe ha há". Anh hùng phải cười ra sao, tao chẳng
biết, nên có lúc tao chẳng dám cười. Trước đánh
giặc xong về cứ chẳng biết làm gì, rủ nhau đi săn,
nhậu, nói chuyện đời. Bây giờ có người hỏi, anh hùng
mà nhậu nhẹt kia à! Thèm rượu muốn chết. Mình thì ăn
mặc xốc xếch, quen rồi, bây giờ anh hùng phải giữ quân
phong, quân kỷ. Trước, giận thì chửi thề, vui cũng
chửi thề cho nó đã. Bây giờ- anh hùng mà sao mở
miệng là chửi thề? Nhiều lúc, thèm chửi thề hơn thèm
thuốc. Giận nhau thì mầy tao, bây giờ anh hùng rồi, nói
năng, xưng hô phải gọi nhau là đồng chí. Đó, đại khái
là vậy, cho nên lúc nào tao cũng cứng đơ như cây củi.
Nghĩ cho cùng, chẳng qua là anh em thương mình, muốn cho mình
bất cứ lúc nào, nhứt cử nhứt động luôn luôn là anh
hùng. Thôi, cũng được đi. Chuyện này mới đau. Một hôm,
một bầy trực thăng đảo qua chỗ đóng quân, thấy nó
nghiêng cánh biết là nó sắp bắn, tao nhanh chân tọt
xuống hầm. Sau đó tao nghe xì xầm: "Anh hùng mà nhát
như cáy. Trực thăng mới liếc qua mà đã són đái trong
quần!" . Mấy lần sau, nó bắn, tao kênh mình đứng,
xoay xoay theo gốc cây, may, đạn nó tránh.
Nghe nó nói mà thương, tôi nâng ly:
- Thôi bỏ. Tao hiểu. Nói chuyện vợ con nghe đi.
Khoan, mầy cho tao cởi cái áo, mặc cái quần cụt cho
nó đã.
Quần áo nó ném lên cành cây, ngồi lại võng vừa
lắc tới lắc lui vừa xé một miếng sặt đa cho tôi:
- Vô đi, rồi tao kể.
Hai đứa cạn ly.
- Chuyện vợ con cũng gian nan, tưởng cưới cô này, té
ra lại cưới cô khác. Mầy biết, nói theo miền Bắc,
tao là con cả, lại là đứa con trai duy nhất. Ba má tao
chỉ có cháu ngoại mà không có cháu nội. Năm rồi, tao
móc gia đình lên thăm, ba tao có dẫn theo một cô gái cho
tao coi mặt, tên Thảo, tuổi hăm hai, người cùng làng
ở xóm Đình, nhưng hồi mình đi cô ta mới tám chín, không
quen cũng không biết. Nếu hai người ưng nhau thì bên
vợ cho phép làm đám cưới ngay tại rừng, không cần
trở về hỏi han gì nữa. Mấy ngày ở chơi, Thảo lo cho
tao đủ điều, lo cơm lo nước, vá quần vá áo. Tao ưng
rồi, nhưng tất nhiên là phải báo cáo với đơn vị,
với chi bộ. Không ai phản đối, nhưng chi bộ có một
đề nghị: cần thẩm tra lại lý lịch. Nếu tao là
chiến sĩ thường thì chẳng có gì phải thận trọng đến
vậy. Với lại, Thảo là người trong vùng địch kiểm
soát, lại nhằm lúc địch đang tung chiến dịch Phượng
Hoàng, cần cảnh giác Thiên Nga chui vào hàng ngũ mua
chuộc cán bộ. Cũng vừa lúc đơn vị lên đường hành
quân, tao mới có dịp xin hoãn. Nửa năm sau, chi bộ nắm
rõ được lý lịch bên gia đình bên gái, mới đồng ý
cho. Tao liền nhắn tin về. Mỗi lần đi là mỗi lần
sống chết, cho nên cả bên cha mẹ đồng ý cho Thảo
theo bà má giao liên, một mình đi lên rừng lấy chồng,
và theo chồng ở lại chiến khu. Còn sui gia thì nhậu
với nhau, coi như mời nhau ăn đám giỗ. Trên đường,
Thảo bị trực thăng bắn chết. Bà má giao liên về,
vừa kể, vừa khóc. Bà má nhờ anh em trạm giao liên chôn
cất cho.
Tôi bỗng nghĩ đến cô con gái, tiếng là đã có
chồng, nhưng lại đời đời nằm lại dưới nấm mộ
giữa cánh đồng hoang.
- Rồi sao? - Tôi hỏi sau phút ngậm ngùi.
- Nghe chuyện, ai cũng thương. Còn mình thì lao vào
chiến đấu. Coi như đã có một đời vợ, lý lịch mình
cũng ghi: Vợ - Lê Thị Thảo, hy sinh. Bất ngờ, sau một
trận đánh trở về, đồng chí Trung tá Bí thư Đảng
uỷ gọi mình lên, bảo: "Đảng đã lo vợ cho đồng
chí rồi. Không đâu xa, cô mật mã, con gái của đồng
chí bên hậu cần của Bộ Tư lệnh. Mai đồng chí lên
đường". "Chào đồng chí anh hùng - Ông già vợ
mình là người vui tính, chào mình như vậy - Lý lịch đôi
bên không có gì phải lo, bây giờ chỉ còn có việc
gặp mặt. Cứ tìm hiểu, ưng thì tuyên bố, không hợp
nhãn thì là đồng chí. Con gái của bác là Nguyễn Thị
Nương Nương, nhưng cứ gọi là Nương cho gọn... Là nhân
viên mật mã, suốt ngày trong rừng sâu, chẳng mấy khi
được tiếp xúc với ai, hơn cả đi tu, đã ba mươi, cũng
muộn màng như mình. Vừa mới gặp mặt, mình đã nghĩ
ngay: đây đúng là cái bến của mình, cái bến của
một tay chèo đường dài quá mỏi mệt. Cắm sào thôi. Mình
ở đó một tuần để tìm hiểu. Một tuần nhưng chỉ
gặp nhau đôi lần. Công việc của mật mã hầu như
chẳng được nghỉ ngơi. Khi nào Nương rảnh, hai đứa
mới dẫn nhau ra chòi ngoài trảng. ở đó, mới nhìn
thấy trời, thấy trăng sao. Rảnh rỗi, không biết làm gì,
mình trổ tài làm mộc, đóng cho mỗi cô một cái bàn, cái
ghế, đóng cho cơ quan một cái bàn dài để tiếp khách.
Có một buổi chiều, hai đứa ngồi ngoài trảng, trời
vừa sụp tối, mình đưa tay choàng qua vai cô, mầy biết
cô ta phản ứng ra sao không? Cô ta hất tay mình xuống:
"Anh hùng mà làm vậy, người ta cười!". Khổ không?
Tao chẳng biết tỏ tình thế nào cho đúng là ngời anh hùng-
thế là tao ngồi nghiêm, mắt nhìn thẳng lên một vì
sao. Hết phép, tao về, cô ta hứa sẽ trả lời sau. Một
tháng sau, tao làm đám cưới. Anh em cất cho tao một ngôi
nhà lợp lá trung quân, dới bóng cây cầy, bên bờ
suối, thật thơ mộng. Dưới thềm là căn hầm chống
bom B52, gọi là hầm bảo vệ hạnh phúc. Cha ơi! Cái đêm
đầu của vợ chồng, vừa háo hức, vừa bối rối,
vừa hồi hộp, chẳng biết tỏ lòng thế nào cho phải.
Cô ta nằm cuộn tròn trong tấm vải dù pháo sáng, nằm
thẳng như một cái gối. Còn tao thì nằm nghiêng. Chẳng
có đứa nào ngủ, cứ trằn trọc cũng chẳng biết nói
năng gì, chỉ nghe hơi thở của nhau. Cho đến gần sáng,
nghe tiếng rền của phản lực, nghe tiếng bom dội lại
từ xa, mình bỗng chợt nghĩ, nếu bom B52 rớt xuống, thì
mình mang tiếng là có vợ mà chẳng biết gì. Nghĩ vậy,
tao liền bật dậy như một ngời lính xung trận, "lên
cò nổ liền mấy phát". Sau đó, tao hoảng, không
biết sẽ bị vợ trách thế nào đây. Không ngờ, cô ta
ôm cổ tao, thì thầm: "Anh đúng là một anh hùng!".Tấn
dằn ly rợu xuống bàn quay mặt, cười sượng sùng.
*
* *
Sau ngày giải phóng, gặp lại, nó trách:
- Mầy làm hại tao quá Quang ơi!
- Chuyện gì?
- Cái bản báo công của mầy. Sau ngày vào thành phố,
tao đang sắp xếp công việc để về quê thì ông già
tao lên. Cha con gặp nhau tất nhiên là mừng nhưng mặt
ổng lại hầm hầm, bảo tao: Bà con lối xóm nếu không
tận mắt đọc, không tận tai nghe cái bản báo công
của tao qua đài thì cũng nghe người khác kể lại. Mấy
bà dì ông cậu đến mắng vốn ông già tao: "Hồi
nhỏ nó qua chơi, nó thích đi chăn trâu thì chăn trâu, có
ai thuê, ai mướn, ai bóc lột nó, hiếp đáp nó, để cho
nó căm thù!". Ông già tao ổng đa tay vỗ bồm bộp vào
ngực: Còn tao, thằng cha mầy, tao đâu có nghèo đến
nỗi cho mầy ăn đói để mầy bị u bị nhọt. U nhọt
thì thằng nhỏ nào không bị. Mầy nói thêm nói bớt để
làm gì? Để làm anh hùng à? Đảng, Nhà nước nói, dân
tộc mình là dân tộc anh hùng, mầy thấy cha đủ sao? Thôi,
mầy đừng có về, mầy về, bà con không ai nhận mầy
đâu!". Nghe ông già nói, tao đau quá, tao có khóc bao
giờ, vậy mà nước mắt tao cứ chảy. Chẳng lẽ mình
bị mất hết dòng họ với quê hương?
Tôi ngồi lặng, không ngờ cái ngòi bút của tôi lại
gây ra một hậu quả nặng nề đến như vậy.
Sau, tôi lại gặp người cậu của Tấn, một nhà giáo
từ Hà Nội về, ông cho tôi thêm một bài học qua
giọng mắng nhiếc:
- Khi anh viết văn, anh muốn cho người ta bay lên trời
hay độn thổ, muốn cho người ta mọc ba đầu sáu tay cũng
không ai nói, còn báo cáo, báo công thì phải thật chứ!
Chuyện đã qua bao nhiêu năm nhưng mỗi lần chợt nhớ
là mỗi lần thấy nhục cho ngòi bút của mình. Cái ngòi
bút nhọn sắc như đâm vào tim tôi, nhói đau.
*
* *
Nghe tin Tấn chuyển ngành, đang trở lại nghề cũ, đóng
bàn ghế, tôi chưa kịp đến thăm anh thì anh đến thăm
tôi, báo tin đã qua thời gian nan.
Ngày vào thành phố, với cương vị là trung tá trong
ban quân quản, trong tay anh không biết bao nhiêu là nhà
cao cửa rộng, nhưng anh lại chọn một ngôi nhà trong
hẻm. Bây giờ bạn bè của anh, người cùng cương vị
anh hoặc thấp hơn anh, nhờ ở mặt tiền, nhờ ở villa,
chỉ cần cho thuê, cho mướn cũng đủ sống. Còn anh, lương
trung tá, vợ chuyên viên hai, hai đứa con, đứa sinh trong
rừng năm 1972, đứa trong bụng mẹ về thành phố,
những năm củi quế gạo châu không đủ sống, phải
sống nhờ gạo "viện trợ" của hai bên cha mẹ
dưới quê.
Trước khi kéo quân lên biên giới đánh Pôn Pốt,
Tấn về Đồng Tháp tìm lại ngôi mộ của Thảo, mang hài
cốt Thảo về quê. Chắc anh là người tình nghĩa, bà
con dòng họ không nỡ giận lâu.
Từ chiến trường Campuchia trở về, mất sức, anh xin
chuyển ngành, về phụ trách tổ chức cho một xí
nghiệp. Qua một năm, Tấn thấy công việc không hợp mình.
Anh tự thấy mình không đủ sức hiểu người trên, người
dưới và người chung quanh. Họ không dễ hiểu dễ
nhận như những ngời lính của anh. Người ta tặng quà,
anh không dám nhận, được mời đi tiệc tùng cũng e
ngại. Anh thấy đằng sau những buổi tiệc linh đình là
một cái gì đó sẽ đến với anh. Có được một bữa
nhậu tình nghĩa thật hiếm hoi. Đã đến cái tuổi
muốn thảnh thơi, anh xin hu. Hu sống sao đây? Vợ chồng
anh sống sao cũng được, không đòi hỏi gì, chỉ thương
hai đứa con bị thua thiệt muốn xem tivi màu phải xem
nhờ hàng xóm, đi học thì nhờ bạn bè chở giúp. Vợ
anh, thỉnh thoảng lại bị sốt rét rừng tái phát, vẫn
xanh xao, mỗi ngày mỗi yếu, không xông xáo như chị em.Cũng
may, nhà có đợc cái sân, anh che mát, làm trại mộc.
Khởi đầu là sửa bàn ghế cho lối xóm, sau đóng bàn
đóng ghế cho các quán cà phê, quán bia vỉa hè. Chỉ
cần đóng ghế cóc thôi cũng đã có đồng ra đồng vào.
Dần dần, khách đến đặt bàn, đặt tủ. Một mình làm
không xuể, anh về quê, kéo lên những tay nghề đang
thất nghiệp.
- Đến bữa nay thì vững rồi, tao muốn mày dẫn tao
đi chơi một trận, xả hơi - Tấn vừa nói vừa đưa tay
vỗ túi - Bữa nay tao có.
Nhìn cái vẻ hớn hở và xuềnh xoàng của Tấn, tôi
ướm:
- Đi bia ôm?
Tấn trợn mắt nhưng miệng lại tủm tỉm:
- Thì cứ thử xem. Nè, tao nghe nói nhà báo tụi mầy
ở đâu cũng có mặt, thiệt bụng là đi chơi, nhưng
nếu có ai bắt bẻ thì nói là đi lấy tài liệu, phải
không?
Tôi cười.
- Như tụi mầy sướng thật !
- Dám đi không?
- ừ thì đi. Đừng sợ tao hư!
Nói vậy chứ tôi đưa anh đến một quán khác, một cái
quán quen, có nhạc lúc xập xình, lúc nỉ non, có các em
son phấn tới lui, bưng rót, có khăn mát ướp dầu thơm,
một cái quán sạch sẽ về nhiều nghĩa.
Tình cờ gặp mấy anh bạn nhậu làm xuất khẩu,
những người bạn làm ăn khá giả. Thế là chúng tôi quây
thành một bàn. Tấn đưa tay xuống bàn quèo tôi, biết
ý tôi giới thiệu anh, thằng bạn tôi, chủ một trại
mộc. Anh bạn làm xuất khẩu của tôi, một người bạn
tuổi trên dưới năm mơi, khỏe mạnh, đầu hớt
"cua" cũng vốn là con nhà lính, liền bưng ly đưa
thẳng lại Tấn:
- Một ly làm quen!
Cả hai đều cạn trong một hơi, hai cái ly vừa đặt
xuống thì hai cái "bốp" nổ cùng một lúc, trong
ánh đèn màu, hai cô em xuất hiện từ lúc nào, đã bật
nút hai lon Heineken và những cái ly màu vàng lại đầy
bọt. Sẵn đà tôi giới thiệu về cái xóm mộc của làng
tôi và tay nghề cha truyền con nối của anh. Anh bạn
xuất khẩu của tôi như bắt được của:
- Mình nghe tiếng cái làng mộc của mấy anh từ lâu mà
chưa có dịp tới, sẵn đây, để gọi là làm quen, anh có
thể đóng cho tôi một bộ ghế cổ, có cẩn ốc, có
chạm rồng, được không?
- Đó là nghề của gia đình tôi.
- Vậy thì ta ký tắt. Sáng mai tôi đến trại mộc
của anh. Nếu đúng tiêu chuẩn xuất khẩu, tôi sẽ đặt
anh dài dài... Mời!
Ra khỏi khách sạn, Tấn vừa đi vừa bảo:
- Mình không ngờ đi nhậu chơi mà được một hợp đồng
ký tắt! - Tháng tới, thằng con tao có xe đi học rồi!
- Xe gì?
- Xe đạp.
- Tao tưởng mày nói Honda.
- Chưa, chưa đâu.
- Nếu đóng được hàng xuất khẩu dài dài thì tivi màu
cho con đâu có khó gì?
Tấn gật gù:
- Tao cũng đang nghĩ. Nói mày đừng cười, đêm nay như
là đêm đầu tiên tao bước vào đời.
Tấn không say, có lẽ anh đang vui nhiều hơn. Anh đi nh
cái dáng đi ngày xa lúc là anh lính chăn bò ở Ba Vì, sau
vài ly rượu, đi hơi lắc lư.
- Mầy thấy đêm nay vui không? - Tôi hỏi.
Tấn đáp một tiếng gọn:
- Đã.
Nguyễn
Quang Sáng
1991