Mẹ hối hả đến tìm tôi với bức
điện: "Em chuẩn bị lên tàu, chiều
mai sẽ về đến nhà".
- Đi đi con, có nhẽ bây giờ tàu đã về
đến ga rồi - mẹ tôi giục.
Tôi cắm đầu cắm cổ đạp.
Chiều lưng lửng buông từng giọt nắng
hanh vàng qua kẽ lá, rơi xuống con đường
làng lát gạch nghiêng. Nắng leo reo như những
vụm lửa nhảy nhót trên tay tôi.
Từ đằng xa, tôi đã nhìn thấy cô.
Cô đứng bên túi đồ đạc to tướng,
ngóng lên đường. Sân ga tấp nập kẻ
đưa người đón.
- Cô - tôi hét tướng, vừa chạy vừa
dắt xe qua cửa ga, lao đến cô.
- Lê, bà sao rồi? - Cô hỏi hấp tấp.
- Bà đỡ nhiều rồi cô ạ - Tôi nói
nhanh để cô yên tâm.
- Có thế chứ - cô thở phào - Ngồi trên
tàu cô cứ nhấp nhổm như ngồi đống
than. Chỉ sợ... không về kịp.
Nhìn cô bơ phờ, mắt đỏ hoe, tôi hiểu
rằng cô đã khóc rất nhiều.
- Cô ra đây thì nhà cửa với các em thế
nào? Hai mươi nhăm Tết rồi!
- Anh em nó lên bà nội ở, ngày ngày các chị
đưa đi học. Nhà thì cô khoá, thi thoảng
bà nội qua lại trông nom. Lê này, bà ốm đã
lâu chưa?
- Dạ, đã vài tháng. Đợt rét vừa rồi
bà quỵ hẳn, tưởng đi. Bố mẹ
cháu bảo điện cho cô về. Hai hôm nay nắng
ấm, bà khá nhiều, bữa ăn được
lưng bát cháo.
- Lạy trời bà qua được mùa rét năm
nay. Cô tính ở nhà lâu lâu chăm cho bà khoẻ hẳn.
Sang xuân ấm lên là yên chí được rồi.
Tôi đèo cô đi lối tắt cho gần.
Đến ao sen đầu làng cô bảo dừng xe
để cô rửa chân tay. Nước trong văn
vắt ngấn lên bắp chân cô trắng ngần.
Cô đứng lâu, lâu lắm, ngắm nghía dậu
cúc vàng rực, vấn vít những tơ hồng.
- Cô Hay về, chúng mày ơi, cô Hay về - Bọn
trẻ vừa hò reo, vừa chạy theo cô cháu tôi.
Chả hiểu ai bảo mà chúng nó biết tên cô
nhanh thế!
- Ô, cô Hay phải không? Gớm, u cô mong mãi, về
mau đi - bà Hà Hoè đon đả.
- Chào các bà, các bác, chào ông... cô tôi luôn miệng
cười tươi.
- Cô ấy cứ đẹp ra, trẻ reo rẻo,
trẻ hơn hồi năm kia đem thằng con về,
các bà nhẩy! - Thím Xèng hể hả.
Bà mừng quýnh, đôi mắt mờ đục
rớm nước, ánh lên những tia sáng. Cả
xóm kéo đến chật nhà. Cô tôi chia kẹo khắp
lượt cho bọn trẻ.
Cô tôi bây giờ là Huê - Thanh Huê. Hay là tên ngày xưa,
trước khi cô tôi đi Nam. Bố tôi, cô tôi,
chú tôi đều là anh em ruột, nhưng không phải
con đẻ của bà tôi.
Trước khi lấy bà tôi, ông tôi nghèo lắm,
chỉ được cái đẹp giai, lành nhất
xóm, ai cũng quý, thường gọi là cu Tiếu.
Bố mẹ ông tôi không một tấc đất
cắm dùi, suốt đời đi cày thuê, cuốc
mướn. Bà tôi sắc sảo khôn ngoan mà cao lớn
trắng trẻo. Bà mê ông tôi lắm. Bao nhiêu đám
ngấp nghé, bà chả thèm đếm xỉa, một
mực chỉ lấy anh Tiếu! Cụ tôi bực
lắm, gả bán qua quýt, gần như để bà
theo không ông tôi. Sau sợ con gái đói khổ, cụ
cho hai sào ruộng, bà tôi nhất quyết không nhận.
Có đôi khuyên tai tích cóp làm vốn từ thời
con gái, bà bán phăng, sắm một con thuyền gỗ,
vợ chồng quanh năm rong buồm dọc sông
Đáy, nước trong leo lẻo, len lỏi qua Kẽm
Trống, Kiện Khê, Chùa Bà Đanh..., tháng Giêng nước
xanh như ngọt; vào tận Nho Quan (Ninh Bình), Thanh
Hoá. Khi vào thì chở muối, đường, mật,
gạo, tương, cà, mắm tép... Khi ra thuyền
chất đầy củi, sắn, ngô khoai, đỗ,
lạc, măng... Dọc triền sông, vô số chợ
quê sầm uất, trên bến dưới thuyền.
Hàng hoá sẵn đấy, cái gì đắt thì
bán, cái gì rẻ thì mua... lãi trông thấy. Thỉnh
thoảng ông bà mới lên bờ về nhà nghỉ
ngơi.
Làm ăn lên như diều, bà trích tiền mua dăm
sào ruộng, mua cho ông chức Lý trưởng. Từ
anh cu Tiếu, ông tôi trở thành ông Lý Tiếu. Một
tay bà tôi gây dựng cơ nghiệp, sinh được
mụn con giai, xóm giềng ai cũng khen. Nhưng bà
tham việc ra đồng sớm, bà tôi bị sản
hậu thập tử nhất sinh. Cởu con thiếu
sữa sài đẹn, chưa đầy một
năm đã bỏ ông bà mà đi. Bà tôi ngất
lên ngất xuống. Sau chữa chạy mãi thì khỏi
ốm, nhưng thầy thuốc bảo bà không thể
sinh nở được nữa. Nhiều người
khuyên ông bà xin con về nuôi, bà không chịu. Bà thương
ông lắm.
- Ông ơi, ông nghe tôi, lúc thầy u khuất núi
đã dặn vợ chồng mình phải cố gắng
cho được thằng con giai nối dõi tông
đường. Nay tôi không may đành phận, nhưng
nhà ta quyết không thể tuyệt tự được.
- Đã bảo không là không. Vợ nọ, con kia,
rồi sinh chuyện này chuyện nọ, làng xóm người
ta cười vào mặt cho!
- "Nuôi con chồng hơn bồng con người",
ông không nghe các cụ nói à. Ông yên chí, xưa nay
chỉ có chuyện "Dì ghẻ con chồng",
chứ tôi... tôi là mẹ già cơ mà!
- Bà chỉ vẽ chuyện! Không nói lôi thôi! -
Ông khăng khăng.
- Tôi sẽ tìm vợ cho ông. Ông mà không chịu,
tôi về nhà bố mẹ ở cho mà xem! - Bà khóc
tấm tức.
Rồi bà làm thật. Cuối cùng ông cũng
nhượng bộ, cưới bà Hai tôi. Bà Hai con
nhà nghèo, không xinh lắm nhưng thuỳ mị, nết
na, được bà tôi bảo ban như em gái. Chị
em thân nhau lắm, ăn ở không có điều tiếng
gì.
Về nhà chồng chưa đầy năm thì
bà Hai sinh bố tôi. Bà tôi quý hơn vàng, ôm ấp
nựng nịu như con đẻ ngày xưa. Bố
tôi rúc đầu vào ngực bà, mút chùn chụt,
tia sữa của bà tôi thông trở lại.
Chăm bẵm mẹ con cứng cáp, bà tôi bảo:
- Nhà khan tiền, tôi với ông ấy đi thuyền
vài chuyến, chờ đến vụ gặt, dì
ở nhà chăm con, ruộng đồng tốt xấu
cứ mặc tôi. Đừng sốt ruột tham làm,
rồi sản hậu như tôi ngày xưa thì khổ!
Một năm sau, bà Hai lại sinh cô tôi, đặt
tên là Hay. Đợi con gái cứng cáp, ông bà tôi lại
lên thuyền, bồng theo bố tôi. Người chống
sào, người bẻ lái và trông con. Đêm đêm,
bố tôi lại rúc vào ngực bà. Dòng sữa tuy
ít nhưng vẫn ngọt ngào. Bà tôi ứa nước
mắt vì hạnh phúc.
Cứ hết một chuyến hàng, ông bà tôi lại
lên bờ. Bà tôi bảo ông ở nhà với bà Hai,
trông nom ruộng vườn, còn bà thì rủ bà em
họ, bồng bố lên thuyền. Khi cô tôi
được 6 tuổi, bà Hai tôi mới sinh thêm
chú Sơn. Bố tôi đã lên 7, ở nhà giúp mẹ
trông em và đi học, còn cô tôi theo ông bà đi
thuyền.
Cô tôi xinh xắn, ngoan ngoãn, được bà
tôi yêu lắm. Cho đến tận bây giờ, cô
vẫn nhớ như in những khúc sông lấp
lánh đầy sao, gió nồm thổi mát rượi.
Trong lòng bà tôi, cô tôi thiêm thiếp ngủ. Sáng dậy,
bừng mắt thấy mênh mông sông nước,
đôi bờ vàng rực màu hoa cải. Những khi
thuyền neo bến lở, sung si lúc lỉu ngang
đầu. Thú nhất là cô được bà tôi
bế đặt lên mui thuyền, với tay hái những
quả duối chín mọng, vàng óng, quả mâm xôi
đỏ rực, tha hồ nhấm nháp. Những
khi theo bà tôi lên chợ, hoa mắt ngắm nghía các
bà, các cô dân tộc mặc váy xanh đỏ sặc
sỡ, hàng hoá đủ các màu sắc, ăn đủ
loại bánh trái, hoa quả.
Song những ngày tháng thần tiên ấy chẳng
được bao lâu. Bà Hai tôi bị cảm, mất
đột ngột, để lại chú Sơn mới
có 5 tháng tuổi. Ông bà tôi quyết định bán
thuyền, tập trung làm ruộng, nuôi nấng các
con. Chú Sơn lớn lên bằng nước cháo và
những hạt sữa cuối cùng của bà tôi.
Chú vừa mút vừa khóc ngằn ngặt, sữa
chỉ rớm môi, còn ngực bà tôi thì bỏng
rát.
Vậy mà chẳng được bao lâu, ông tôi
lại bỏ bà tôi vì ngã nắng giữa buổi
cày. Bà tôi khóc cạn nước mắt. Nếu không
vì 3 đứa con thơ dại thì bà đã liều
mà đi theo ông tôi.
Từ đó, một mình bà tôi vật lộn với
cuộc sống. Ban ngày làm đồng quần quật,
tối về xay lúa giã gạo, cám bã lợn gà,
cùng cục đến nửa đêm mới ngủ.
Gà gáy canh ba đã vội vã thức dậy. Cực
nhất là vào vụ gặt, ban ngày cắt lúa
ngoài đồng, tối về đập lúa, sàng
sảy thâu đêm suốt sáng.
Năm ấy, hai mươi chín Tết.
Tối nhọ mặt người, bà Ba xưng
reo réo ngoài ngõ:
- Hớn ơi, u mày bảo cứ cho các em ăn
trước đi, u mày còn cấy cố.
- Thím thấy u cháu còn mấy đóm mạ nữa?
- Bố tôi vội vàng chạy ra.
- Ôi dào, tao lên bờ giời đã nhá nhem, rét
cóng cả người, để ý gì. Nom như còn
nửa lối cấy nữa cơ!
Bố tôi quay vào, giục cô tôi xới cơm bón
cho chú Sơn. Mâm cơm nguội tanh nguội ngắt,
có mỗi đĩa rau muống luộc đỏ
quạch chấm tương. Chú tôi khóc èo ẹo
đòi u.
Khoảng 8 giờ tối, có tiếng ông Hai Hoè hổn
hển ngoài cổng:
- Thằng Hớn đâu, mau mang ôm rơm lên
đây đốt cho u mày... sưởi!
Nhìn ông Hoè còng lưng cõng bà tôi, bố tôi run bắn
người, vừa mếu máo vừa lập cập
ra đống rút rơm.
- Đốt nhiều vào, để tao chạy về
lấy chai rượu gừng.
Chưa giập bã giầu, cả xóm kéo đến
chật nhà. Người bà tôi tím tái, lạnh giá.
Xoa hết chai rượu gừng, đốt mấy
ôm rơm, bà tôi mới hồi dần. Mọi người
thở phào, ông Hai Hoè oang oang:
- Bà á, có nhẽ đến chết bà cũng không
hết chứng tham. Rét cắn thịt, tối bưng
mắt, nhìn thấy gì mà cấy mới chả
hái. May mà con bé nhà tôi để quên cái bồ
cào, tôi sợ nhỡ sáng ra có đứa nào thuổng
mất, vấp phải bà ấy đang gục
ở bờ ruộng, chứ không hôm nay bà ấy
đi tong rồi.
Bà tôi cười nhợt nhạt:
- Vâng, tối quá, em chả nhìn thấy gì, cứ
cấy phỏng chừng. Nhưng mà cũng đều
ra phết đấy bác ạ. Nhận ruộng rồi,
cố cho xong. Mai đã là ba mươi Tết rồi,
em đã mua sắm được gì đâu!
- Thằng Hớn, hôm qua tao thấy u mày giã gạo
nếp, mang rá vào buồng xúc cho tao dăm bơ, sáng
mai tao gói bánh ninh một thể, nồi
đương rộng. Đỗ nhà tao vô khối,
nhân tha hồ ngon.
Bà Tuất bưng nồi cháo gừng thơm phức
từ dưới bếp đi lên, đỡ bà
tôi dậy:
- Nào, thím ăn cháo đi, húp thật lực mới
lại sức. Còn thịt lợn, nếu thím chưa
đụng với ai, bên tôi hẵng còn nửa
đùi đấy. Tiền thì không phải lo, giêng
hai hay lúc nào giả chẳng được. Khoai tây,
măng miến, rau cỏ, mai tôi đi chợ mua hộ
một thể, thế là được chứ gì?
Cứ yên trí mà nghỉ ngơi nhá!
Bà tôi cảm động ứa nước mắt.
Khi mọi người về cả, bà bảo bố
tôi dọn dẹp qua loa rồi lên giường. Bà
quàng tay ôm cả 3 đứa con vào lòng, nước
mắt giàn giụa, bụng khấn: "Ông ơi,
giời còn để mắt đến nhà ta, cho
tôi được sống nuôi các con nên người.
Ông khôn thiêng cố phù hộ cho mẹ con tôi, ông
nhá!".
Rồi thì các con của bà tôi cũng theo nhau mà
lớn lên. Lao động cật lực cùng nỗi
đau đã vắt kiệt sức lực bà tôi.
Chưa đến bốn mươi tuổi mà bà
tôi tiều tuỵ quá. Năm bố tôi mười
sáu tuổi, bà tôi cưới vợ cho con trai để
thêm người đỡ đần việc nhà.
Tôi là đứa con đầu lòng của bố mẹ
tôi.
Giải phóng miền Nam, ông cậu ruột (em
trai bà Hai tôi) từ miền Nam, xin bà tôi được
đưa cô tôi vào thành phố Hồ Chí Minh rồi
xin việc làm trong đó "để khỏi chân
lấm tay bùn". Vào Nam, cô phụ giúp bà mợ
bán hàng. Phố xá làm cô tôi mau nõn nà. Mấy tháng
sau cô tôi lấy chồng - con một thiếu tá Nguỵ
đã sang Mỹ dạo 30/4. Cưới được
ít lâu, mẹ chồng cho cả hai ra ở riêng.
Nhà mặt phố, cô bán lặt vặt cũng
đủ sống, dư dật lại gom góp gửi
về biếu bà và bố mẹ tôi. Bà bảo
dành dụm để sửa nhà, và ngôi nhà lợp
ngói nam mấy chục năm dột nát đã
được sửa lại, thay bằng ngói ta
đỏ tươi. Bà tôi về già lại béo
khoẻ, hồng hào ra. Cả làng ai cũng bảo
bà tôi hồng phúc, có được những đứa
con hiếu thảo.
Được hai đứa con, ông bố bảo
lãnh cho chồng cô tôi sang Mỹ và ở hẳn
bên đó, thỉnh thoảng gửi tiền về.
Cuộc sống sung túc trở nên nhạt nhẽo,
cô tôi gửi thằng con lớn cho mẹ chồng,
đem thằng nhỏ ba tuổi về quê chơi.
Lần ấy, cô tôi cứ nấn ná mãi, không muốn
đi. Cô bảo ở quê bây giờ sướng thật.
Ngày xưa, nửa làng là nhà tranh, bây giờ toàn
nhà ngói. Đường làng trải đá răm sạch
sẽ, không còn lầy lội nữa. Mùa gặt,
đồng được tháo kiệt nước,
máy tuốt lúa mang ra tận ruộng. Ngày xưa, gặt
lúa, ruộng bùn sút đến ngang lưng, ì ạch
gánh từng gánh, đập lúa thâu đêm suốt
sáng. Vậy mà còn mừng vì có hột ăn, mất
mùa thì trắng tay. Tháng ba ngày tám đói dài,
ăn củ đao, củ chuối là chuyện thường.
Ngày xưa... Cô tôi cứ xuýt xoa mãi.
Rồi cũng đến lúc phải lên tàu về
Nam. Tôi theo cô vào đó hai năm. Cuộc sống
nhàn hạ, nhưng tôi thấy buồn nhớ quê,
nhớ khung thêu da diết. "Nó bảo một
lòng chờ con về, gái làng chả có ai vừa
xinh vừa thêu giỏi như con" - mẹ tôi viết
thư và bảo thế. Vậy là tôi về. Cô
tôi khóc nhiều lắm! Ngày cưới tôi, cô tôi
không về được, gửi đôi hoa tai làm
quà mừng, nói là để hai vợ chồng làm
vốn.
Hội làng năm nay mở đúng rằm tháng
Giêng. Gần như suốt 3 ngày, cả nhà ngoại
tôi có mặt ở ngoài đình. Bố tôi là chủ
tế, mẹ tôi chỉ huy việc nước nôi,
nấu nướng... Em gái tôi trong đội múa
(gồm hai mươi cô trinh nữ), em trai tôi
ở trong đội rước kiệu. Bà nắm
tay cô tôi đi trong đám rước. Nét mặt
bà tôi rạng rỡ, trông trẻ ra vài tuổi.
Đình làng tôi thờ ba vị tướng tài
thời xưa, là ba anh em ruột có công giúp vua
đánh giặc giữ nước. Vì thế, lễ
rước gồm ba cỗ kiệu lớn: Kiệu
ông Cả, kiệu ông Hai và kiệu ông Ba. Dẫn
đầu là đội rồng-lân múa mở
đường, khoan thai uyển chuyển, múa lượn
trong nhịp trống trầm hùng. Đoàn rước
đông nghìn nghịt, dài hàng nửa cây số,
màu cờ sắc áo rực rỡ, dập dìu trên
đồng lúa xanh non, rước về miếu Hai
cô, rồi vòng trở về đình trên con
đường chính giữa làng được lát
gạch nghiêng. Có những lúc cả ba cỗ kiệu
tự dưng quay tít trên đầu người khiêng
rồi lướt nhanh như bay làm đôi kiệu
chạy bở hơi tai, mặt người nào người
nấy đỏ lựng, lấm tấm mồ hôi.
Mọi người chạy theo ào ào, thầm thì:
các ngài vui quá, đang đùa với con cháu đất!
Có lúc kiệu dừng hẳn, đội kiệu cố
sức cũng không nhích được bước
nào. Lại tiếng thì thào: Ông Ba đùa đấy,
ông Ba nhỏ tuổi nhưng thông minh, nghịchngợm
nhất mà! Chả biết việc kiệu quay, kiệu
dừng diễn ra trước mắt tôi có thật
hiển linh hay không, hay là do tài nghệ "điều
binh khiển tướng" của các cụ nhà
ta đối với đội khiêng kiệu! Song sực
thực thì chính điều đó làm cho lễ rước
trở nên vừa trang nghiêm long trọng vừa tưng
bừng náo nhiệt đến tột độ, làm
nên phút thăng hoa trong tâm thức của cả một
cộng đồng, gắn bó mọi người
trong vẻ đẹp lộng lẫy mà tinh khiết,
thánh thiện.
Kiệu dừng trước sân đình. Đội
rồng, lân trình diễn những điệu múa
ngoạn mục nhất, mời ông Cả, ông Hai,
ông Ba vào đình.
Nhìn hai mươi cô trinh nữ má đào, yếm
thắm, áo dài tứ thân bằng lụa hồng,
thắt lưng hoa lý rộn ràng, uyển chuyển
trong điệu múa xênh tiền, bà tôi thì thầm:
- Hay này, trông con Lụa giống hệt con và mẹ
đẻ con ngày xưa!
- Vâng, may mà ngày ấy con may mắn được
chọn vào đội. Nhưng mà bây giờ quần
áo sắc màu đẹp hơn, lễ rước
to hơn nhiều - cô tôi bồi hồi, se sẽ
đáp.
Suốt ba ngày hội, không khí trong làng lúc nào cũng
ồn ào, náo nhiệt. Hết phần tế lễ
là phần hội: ban ngày thi bơi chải, kéo co,
bắt vịt, vật, đánh cờ...; buổi tối
các cụ đọc thơ, thi hát chèo, hát trống
quân, hát đối... Cô tôi say sưa trong hơi
ấm của hội làng.
Bà tôi không qua được vụ rét năm
ấy. Người ra đi thanh thản giữa một
chiều tháng hai rét ngọt.
Lo gọn ghẽ lễ cầu siêu bốn chín
ngày rước vong hồn bà lên chùa, cô tôi mới
lên tàu vào Nam.
Hơn mười năm sau, vào độ cuối
tháng Chạp, bố mẹ tôi nhận được
thư của cô tôi: "Em đã bán nhà để
ra Bắc ở hẳn với anh chị và các cháu.
Các con em đã ở bên Mỹ cả, chúng nó cũng
nhất trí quyết định của em. Tiền của
bố con nó gửi về sống dư dật,
nhưng em ở trong này buồn lắm. Em sẽ về
trước Tết, còn kịp dự hội
làng"./.
Vũ Minh Thuý