Trước đây, tôi cứ nghĩ chỉ có vùng sông nước
kinh rạch như đồng bằng sông Cửu Long thì mới có
chợ sông. Nay có dịp lên Tây Bắc mới biết chợ sông
trên này cũng có nhiều nét đặc sắc chẳng kém. Ông Ngô
Nhân, chủ thuyền cho tôi đi nhờ, vừa có dáng bệ vệ
của một ông chủ; vừa có vẻ bề ngoài lọc lõi,
từng trải của dân sông nước. Từ khi chưa làm thuỷ
điện Hoà Bình, sông Đà còn lắm ghềnh nhiều thác, ông
Nhân đã từng là một tay chèo có hạng. Tôi thầm nhủ:
mình số may vì được đi nhờ thuyền của một lão làng
sông nước.Thuyền buôn trên sông Đà có hai tuyến: vòng
ngắn và vòng dài. Dù là tuyến nào đi nữa thì thuyền
cũng đều phải tập trung ở đầu kênh (thị xã Hoà Bình)
đón dân buôn, lấy hàng và trả hàng. Thuyền vòng ngắn
chỉ đến chợ Sáy thuộc huyện Mộc Châu - Sơn La , bên
này sông là Phù Yên rồi quay về. Thuyền vòng dài lên
tận Tạ Bú thuộc Mường La - Sơn La. Mỗi chuyến đi
mất một tuần, quay về kênh nghỉ 3 ngày rồi lại đi
tiếp sao cho 19 điểm chợ ven sông cứ 10 ngày lại có
một phiên. Nếu trước kia buôn bán trên sông chỉ bằng
thuyền gỗ một hai chục tấn thì nay được thay bằng
thuyền sắt tải trọng lên tới 50-100 tấn. Mỗi thuyền
có từ 60 - 80 khoang. Tôi đã xuống một hầm thuyền như
thế. Mỗi khoang được chừng 2 mét vuông là một quầy
hàng. Người, hàng hoá, lợn, chó, gà nằm chen chúc nhau
không có lấy một chỗ đặt chân. Kể ra với giá 60-70
chục ngàn cho một khoang trong cả chuyến đi như thế cũng
được. Dân buôn mắc cái võng toòng teng, ngắm trời mây
sông nước qua cái lỗ bằng bàn tay, nghe nhịp phành phành
của bốn cái máy công nông rồi thiếp đi lúc nào cũng
chẳng biết. Kể cũng thú! Thấy rùng mình một cái
biết ngay thuyền đã cặp bờ. Nếu là chợ to, chợ chính,
thuyền đến từ chiều hôm trước gọi là chợ đón. Sáng
hôm sau họp tiếp vài tiếng rồi nhổ neo gọi là chợ
đi. Những đêm thuyền neo lại, đàn bà con gái lên lều
chợ ngủ trông hàng; đám thanh niên làm bạn với tá
lả, chắn cạ ầm ĩ cả đêm. Được cái đài kêu, điện
sáng cả một khúc sông nên bà con ở cái vùng làm ra điện
mà không có điện này cũng bớt tủi .Thuyền vừa đến
chợ, chục anh cửu vạn thân hình lực lưỡng da đỏ như
đồng hun, tay vác vai gánh những thùng to, thùng nhỏ
của dân buôn lên các lều được dựng sẵn ở sát mép
sông. Một cửu vạn tên Dục quê Vĩnh Phúc trông chẳng
khác gì danh thủ Rudd Gulid nhưng hơn cái có trong tay thêm
nghề cơ bắp giọng hiền khô, khoe: "Tháng cũng được
ngót triệu, mỗi tội ít được gần vợ con". Hàng
hoá ùn ùn gánh lên các sạp nhưng được cái trật tự,
lều của người nào người ấy ngồi, không tranh giành,
không cãi vã.
Chợ đón thường đông hơn chợ đi. Chợ đi chủ
yếu phục vụ bà con ở tận trong rừng sâu chưa kịp ra
vào chiều hôm trước để mua bán ở phiên chợ đón. Hàng
hoá của chợ trên sông Đà khá phong phú. Hàng lương
thực thực phẩm, dược phẩm, xăng dầu, hàng sắt, hàng
nhôm, hàng tạp hoá, hàng ăn... thôi thì đủ cả những
mặt hàng thiết yếu cho bà con dân tộc thiểu số ở vùng
sâu vùng xa. Chỉ tính riêng thuyền của ông Nhân đây đã
có tới 24 tấn gạo, 2 tấn lợn... Theo ước tính của các
chủ thuyền, số tiền hàng bán được của 5 thuyền vòng
ngắn trong một tháng khoảng 1 tỷ đồng. Đó là chưa
kể tới khoảng 10% dân buôn trên thuyền chuyên thu mua,
đổi chác các sản vật của địa phương. Tôi hỏi ông
Nhân: " Thế thì khá quá ?" - " Trừ chi phí
đi cũng chẳng còn được bao nhiêu, tao , chủ thuyền cũng
vậy mà dân buôn cũng thế ." - " Có gỗ lạt gì
thêm được không ?" - " Cũng có, nhưng qua kiểm
lâm, cảnh sát luật lá hết, cũng chẳng còn lãi
mấy". Vợ chồng anh Khanh, chị Hương nhà ở ứng Hoà,
Hà Tây kể: "Có mỗi hai sào ruộng khoán, không đủ
ăn, bọn em phải đi hơn chục năm nay rồi, trừ tất
cả các khoản cũng đủ sống". Dân buôn ở đây
phần lớn là dân buôn nghèo từ Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh
Phúc, Hưng Yên... Sau mỗi chuyến, họ lại quay về trả
tiền hàng cho chủ rồi lại cất hàng cho chuyến đi
mới.
Tôi ở trên thuyền đến ngày thứ ba thì đột nhiên
lũ ở thượng nguồn kéo về. Dòng sông Đà trước đó
vài tiếng hiền hoà là vậy, bây giờ bỗng sục sôi,
cuộn mình như muốn đổ cả khối nước khổng lồ về
xuôi. Nước lên nhanh đến chóng mặt. Khoảng cách từ
mặt nước đến cái vạch mà thiên nhiên tự tạo ở vách
núi bên sông cứ ngắn dần. Cứ nhìn vào cái vạch do cây
cỏ tạo thành đó, người ta biết được mức nước
cao nhất của hồ sông Đà. Ông Nhân chỉ tay về phía
những cây gỗ đang lao ầm ầm từ thượng nguồn về nói:
"Hồi bọn này còn đi thuyền gỗ, mùa lũ sợ nhất
va phải đám gỗ ngược dòng. Sơ xẩy một tý là thủng
thuyền như chơi". Rừng bị phá nhiều, nước xồng
xộc đổ về kéo theo cả những cây gỗ còn tươi. Mới
bắt đầu mùa lũ mà đã tập hợp được cả một đám
gỗ lớn quẩn lại phía bến phà Tạ Khoa khiến nhà phà
phải ngừng hoạt động. Trên triền núi, một dẫy dài
xe ô tô đang xếp hàng đợi phà sang Phù Yên. Hai bên sông,
núi cứ đứng phơi mình trong mưa trông u tịch, lạnh
lẽo, gợi cảm giác buồn đến nao lòng. Cho tới giờ tôi
mới thấm cái cảnh chợ chiều. Tan phiên chợ ở cái vùng
heo hút này còn buồn hơn. Bởi vì chợ đối với người
dân tộc thiểu số có nhiều ý nghĩa lắm! Nó không
chỉ là nơi trao đổi vật chất, mà quan trọng hơn, là
nơi giao lưu về mặt tinh thần. Cứ suy từ cái cách người
dân tộc ở vùng sông Đà này gọi tên chợ (đón, đi) cũng
đủ thấy tầm mức ý nghĩa của nó. Chợ đối với
họ là nỗi khắc khoải mong chờ, là niềm vui và cảm
giác hụt hẫng lúc chia tay. Trộm nghĩ, vì một lý do nào
đó đoàn thuyền ngừng chạy, không biết bà con dân
tộc mua dầu, muối ở đâu? Tôi đang lan man suy nghĩ thì
đột nhiên ông Nhân giật tay tôi kéo vào khoang. Còn đang
ngơ ngác chưa hiểu gì thì ông nói: "Tao ngửi thấy
mùi người chết trôi...".
Dưới thuyền, anh Dục đang lôi xềnh xệch một con
lợn lên bờ để hoá kiếp. Lợn ôi, lợn bệnh, lợn
chết bán được tuốt. Được cái bán rẻ, dân nghèo cũng
mua. Trong số 5 thuyền thì 4 thuyền có "quầy dược
phẩm". ấy là gọi quầy cho oai chứ đúng ra chỉ có
vài cái mẹt, bán các thứ thuốc thông thường. Có khá
đông người mua. Mấy chị người Mông, người Dao giơ
vỉ thuốc tây lên săm soi kỹ lắm. Tuyệt chẳng thấy
ai hỏi bà chủ "quầy dược phẩm" học trường
lớp nào ra mà dám bán "cái thứ chữa chết người"
này.
Đi vài vòng quanh cái chợ nghiêng 23 độ 5 cũng thấm
mệt và đói. Tôi đi tìm cái gì cho vào bụng. Bà hàng
phở đang nhóm lửa và chế thêm nước. Ôi! Hai can nước
sông Đà đặc quánh phù sa bà dùng làm nước suýt. Trên
bàn, bà hàng phở bày la liệt những tiết canh, lòng,
dồi. Cái thứ nước phù sa ấy đun sôi có lởn vởn tý
chút thì "thượng đế" cũng cho là nước luộc
lòng, càng béo, càng ngon. Có lẽ đông khách nhất phải
kể đến cánh hàng thuốc lào. Cái bộ dạng ngồi xếp
bằng trước một dãy điếu ục to, cặp môi tim tím,
giọng khê đục mời khách của mấy tay bán hàng đã
thấy mê. Khách ngồi xuống xem hàng được rót mời
một chén trà đặc sánh. Nhấp một ngụm, rít một hơi
thuốc rồi chiêu nốt ngụm trà còn lại, ngọt giọng
phải biết! Chẳng anh nào phải đứng lên tay không cả.
Đêm đó, tôi không ngủ lại trên thuyền mà xuống
nghỉ tại một nhà bè cách đó không xa. Chủ nhà bè là
hai thanh niên một nam, một nữ. Họ từ đâu đến? Họ
có phải vợ chồng không? Tôi không biết. Gặp trên
chợ, họ biết ngay tôi không phải dân đi chợ và rủ tôi
về nhà chơi. Và thế là tôi theo thuyền độc mộc của
họ đến đây. Căn nhà bè chỉ độ chục mét vuông,
mong manh và đơn độc, hoang dã và cô tịch. Liên hệ
với thế giới văn minh duy nhất chỉ có chiếc đài bán
dẫn. Chủ bè sống bằng nghề thu mua các sản vật của
bà con dân tộc rồi bán lại cho dân buôn trên thuyền đem
về xuôi. Đêm đó có vài người lạ chèo thuyền tới cùng
uống rượu. Rượu nhắm với rau rừng, lạc rang và
rất nhiều cá. Sông Đà mùa lũ cá nhiều vô kể. Có
nhiều loại cá, song phần lớn là cá trơn da, không
vảy. Trong cuộc rượu, đương nhiên tôi là người say
trước. Tai tôi ù đi, mắt hoa lên. Một lúc sau chỉ nghe
láng máng bên tai rặt nhưng chuyện trộm cướp, chém
giết, tù tội...
Sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng mấy chị
buôn gạo loang dài trên mặt sông: "Mua gạo đi cu
Tỷ ơi! Cu Tỷ ơi, gạo ngon này !". Mời thế nhưng
đừng tưởng bán cho mấy anh chàng người Mông mà dễ
đâu. Họ chần chừ, suy đi tính lại cả buổi chợ
mới mua được món hàng, cho dù rất nhỏ.
Tôi hỏi một thanh niên người Mông ở Kìa Mòn - Mộc
Châu đang bán một con dao tự rèn:
- Bao nhiêu?
- 30 nghìn.
- Làm bằng gì?
- Zik đấy ( nhíp ô tô đấy).
- Không phải đâu quá?
- Ô, người Mông mình không nói dối mà.
ở chợ vùng lòng hồ sông Đà này, một số dân buôn
lợi dụng tính thật thà của người dân tộc làm trò
điêu chác, lừa lọc khiến họ mất dần lòng tin. Nhưng
khổ nỗi, biết mua ở đâu, bán ở đâu khác nữa; cũng
chẳng biết mặc cả mặc lẽ ra làm sao nên cuối cùng
tan chợ đành quay lại mua liều, bán vội nên mới... hơi
bị lâu. ấy thế nhưng bà con dân tộc thiểu số sống
dọc sông Đà này, nhất là người Mông, cũng phóng khoáng
chịu chơi ra trò. Năm nào được mùa, họ mua hết bán
hết, ăn uống thả cửa không cần biết đến hôm sau,
vụ sau. Gặp những năm thất bát, họ phải đem cả con
gà đang đẻ, bắp ngô non, vài cân vỏ dướng bán lấy
tiền mua dầu, muối. Nói chung. đời sống của bà con còn
vất vả lắm! Trẻ trong bản đi chợ ngẩn mặt nhìn hàng
kem. Đứa nào may mắn được mẹ mua cho cái bánh thì
giữ dịt ở trong túi, chỉ dám đưa lên mũi hít hà vẻ
phấn khích và kiêu hãnh tột cùng. Người đi chợ ở
ven sông toàn "dân di vén ". Bản làng của họ
hiện nay đang nằm dưói lòng sông Đà. Họ phải đi ngược
lên núi cao để sinh sống, nhường chỗ cho công trình
thuỷ điện thế kỷ của quốc gia. Sắp tới, sẽ có
một công trình thuỷ điện nữa trên dòng sông Đà này
- thuỷ điện Sơn La. Lại sẽ có nhiều bản làng di vén?
Lại sẽ có những chợ đón, chợ đi ?
Tôi choãi chân chèo cùng mấy anh cửu vạn đẩy
chiếc thuyền rời bến. Ngày mai, thuyền lại trở về kênh.
Trên bờ, anh chàng người Mông say rượu cứ hát. Đoàn
thuyền te tái rời bến này để về bến mới cho sớm
chợ. Vài phút sau, tôi chỉ kịp nhìn thấy tay anh thanh
niên người dân tộc Mông kia huơ huơ lên trời như một
cử chỉ tạm biệt rồi mất hút phía bãi sông./.
Ngô Thiệu Phong