Hòn đảo kỳ lạ
Cậu lính trẻ vỗ vai tôi, nói nhỏ:
- Tới đảo rồi. Anh chuẩn bị vào đảo nhé!
Tôi cuộn vội võng bạt. Rồi thì ớ ra, cứ ngỡ mình
nghe nhầm. Nhưng con tàu đã quá quen sóng gió, luồng
lạch biển cả này thì không thể nhầm được. Nó đang
òng ọc buông neo. Sau lưng tôi, trên mặt boong ướt
nhoẹt, ngổn ngang những xích sắt, thừng chão, mấy
cậu lính trẻ đang nhí nhóp bơm cái xuồng cao - su. Tôi
đưa mắt lục lọi bốn phía trời, vẫn chẳng thấy gì
hết ngoài một đại dương nước đen ngầu, chảy vật
vã dưới vòm mây hoang vu, khô héo. Đảo đâu?
- Kia kìa. Nó đấy! Chính cu cậu đấy!
Cậu lính nói khào khào, rồi vung tay, chỉ lên... lưng
chừng giời. ở đó, một đàn chim bay loạn xạ. Những
con chim đen kít, trông như những nắm giẻ rách mà một
gã tàng hình quái qủy nào đó, cứ nhắm tịt mắt,
rồi ném loạn xạ lên thinh không. Dưới bầy chim, biển
đen sẫm ánh lên một dải nước xanh rợn như màu lá
mạ. Trên quầng xanh rờn rợn ấy, xập xoè một lều
bạt. Cái lều hoang sơ, ngơ ngẩn như lều vịt mà ông
chủ đãng trí nào đó đã bỏ quên trên cánh đồng đang
cày vỡ. Mái lều trũng xuống vì phân chim. Những vệt
phân lâu ngày trắng xoá. Những vệt phân tươi nâu
sậm, lác đác có cả những vệt đỏ nhờ, trang điểm
cho mái lều một vẻ đẹp sặc sỡ đến quái đản. Đảo
đấy! Nó là cái dải nước xanh phơn phớt nằm dưới
chân lều bạt. Thế mà trong sách báo, cả sách khoa
học, sách địa lý dành cho giới học đường, người
ta lại định nghĩa: Đảo là một khoảng đất nhô lên
giữa biển khơi, bốn xung quanh là sóng gió, mây nước.
Bịa! Toàn là bịa! Làm gì có chuyện hoang đường như
thế, hả các nhà khoa học? Xin các ngài hãy nhìn một
sự thật đang lồng lộng hiện ra ở phía trước mặt
kia kìa! Cứ tưởng các vị lúc nào cũng chính xác, cũng
tỉnh queo như sáo tắm. Ai dè các bố cũng mơ mộng, cũng
nói rặt những chuyện tưởng tượng. Đã thế lại còn
đàn sáo văn thơ...***
Khi tôi lập cập bám thang dây leo được lên lều
bạt, người mừng nhất, mừng ra mặt là một cậu lính
trẻ mà sau này tôi mới biết là Hai. Trần Văn Hai, một
thi sĩ lừng danh ở xứ đảo chìm. Hai trố con mắt
thạch sùng nhìn tôi:
Đúng ông anh thật à? Kinh nhỉ! Em không thể tưởng tượng
được! Em cứ ngỡ ông anh khác kia. Ai ngờ lại xù xì
thế này. Kinh thật!
Kinh à?
- Vâng! Em nói ông anh đừng tự ái nhé! Trông ông anh
cứ ùng ục như cái lão đào huyệt. Kinh bỏ bà! Thế mà
trước đây, em cứ tưởng thi sĩ bao giờ người cũng
mảnh mai, đôi mắt lúc nào cũng mơ màng, trầm uất và
buồn thăm thẳm!
- Thì cậu cũng là thi sĩ mà cậu cũng có mảnh mai đâu
nào?
- Em là thi sĩ đểu! Chúng nó gọi thi sĩ là gọi đểu
đấy!
Hai bỗng đỏ bừng mặt. Cậu ta quẳng cái ba - lô
của tôi lên tầng giường cao nhất, rồi khẽ xuýt xoa
như húp phải bát cháo nóng:
- Anh nằm giường này nhé. Đây là cái giường của
thằng Thiêm. Đồ đạc của nó kia. Anh quản luôn cho nó.
Cứ coi như cái giường này của anh.
- Thiêm nó về phép à?
- Không! - Hai bùi ngùi. - Nó mất rồi anh ạ! Chắc
chắn là mất rồi. Vì chúng em đã lặn lội tìm nó ròng
rã hơn tháng trời mà vẫn chẳng thấy. Tội quá, vừa
rồi cu cậu lại có thư mẹ. Bức thư nó mong mãi hôm
qua mới đến. Nó cứ sợ bà cụ làm sao. Người già như
ngọn đèn trước gió, chả biết thế nào. Chúng em vẫn
chưa báo tin về gia đình. Bà cụ cứ mong nó về lấy
vợ. Thiêm ơi, u đã rấm cho mày một đám rồi đấy. Nhà
cũng có sẵn con lợn trong chuồng rồi. Mày cứ về là cưới
thôi. Con đừng lo gì cho u. ở nhà, u cũng còn mớ rau,
nải chuối, cũng có đồng ra đồng vào. Con đừng gửi
tiền cho u nữa. Nếu Chính phủ có cho đồng nào thì con
cứ bỏ vào cái hõng cột, tích lại mà cưới vợ, đừng
gửi cho u nữa... Khổ, ở đây, tiền như giấy lộn, có
dùng được vào việc gì đâu. Mà anh thấy đấy, làm gì
có hõng cột...Giọng Hai nghẹn lại. Đêm ấy, tôi không
sao ngủ được, mắt cứ trân trân nhìn lên nóc bạt. Trên
đó, chiếc ba - lô của Thiêm cứ đong đưa trong gió.
Thỉnh thoảng, đôi đũa tre lại khua leng keng vào cái bát
sắt sứt men. Vào những lúc như thế, Hai thường múc
một bát nước ngọt đặt lên đầu giường, rồi lặng
lẽ chắp tay, vái lên nóc bạt.
- Ông anh ra được đây là rất hay rồi. - Hai nói
tuế toá, như muốn phá bầu không khí trầm lặng đang
trùm khắp căn lều. - Cần gì, chúng em xin phục vụ đầy
đủ. Bây giờ, ông anh là đại ca. Em chỉ là con tép. Có
nhu cầu gì, xin đại ca cứ "quát" nhé! Em chiều
tất! Chỉ cần đại ca sản xuất cho em một trăm bài thơ.
Em sẽ bán dần cho chúng nó. Cứ là treo báo tường mệt
nghỉ!
Chiều xuống dần. Mặt trời đã chìm khuất hẳn sau
một bầu nước rùng rùng tím ngắt. Nhưng những đám mây
vẫn còn bắt nắng, đi lừng lững trên đầu, rừng
rực như những đám cháy lớn. Bầy chim biển đi kiếm
ăn về. Chúng kêu oang oác quanh lều. Tiếng kêu hoang vu và
tanh lợm mùi cá. Hai lẩm bẩm:
- Đêm nay lại mất ngủ vì bọn giặc trời này đây.
Cứ là điếc tai nhức óc!
- Sao vậy? - Tôi ngạc nhiên.
- Vì ông anh mới ra, còn hơi người, nên chúng mới
nhao đến làm tình làm tội. Mai, chúng sẽ
"khinh"ông anh thôi!
Tôi bàng hoàng. Chẳng lẽ ngày mai, mình không còn hơi
người nữa ư? Thế rồi đúng như lời tiên tri của
Hai, hôm sau, bầy chim lảng xa dần, chúng bay chao chát ở
phía cuối biển, nơi bãi đá ngầm ánh lên một dải nước
xanh nõn. Nhưng đấy là chuyện của ngày hôm sau. Còn bây
giờ, lũ chim nhao đến như dã thú. Chúng đánh võng quanh
lều, cánh đập loạn xạ và kêu như xé vải. Những con
chim cũng lạ. Mỏ khoằm. Chân có màng như chân vịt. Chúng
có thể bay trên không như mây và bơi dưới nước như
vịt. Hai cái chân thành hai cái bai chèo. Chúng chui vào
lều, đẻ cả vào chăn lính. Những quả trứng to hơn
trứng ngỗng, vỏ xanh nhờ, lấm tấm những chấm đen. Lính
ta thu gom trứng lại, cho vào thùng phuy. Nếu không kịp
ăn, chừng ngót tháng sau, những quả trứng đó sẽ tự
nở. Chim con tự mổ vỏ trứng mà chui ra, không cần mẹ
phải ấp.
Chim ở đây tỏ ra rất khinh người. Chúng tưởng người
cũng là một loại chim nào đó. Chúng đứng ngay trên giường
người mà rỉa lông mà tỉa tót trang điểm nhan sắc. Có
con còn gườm gườm nhìn người thương cảm, như nhìn
bầy chim cánh cụt đã già khú ra rồi mà vẫn chửa
biết bay.
- Tiếc ở đây, chẳng có hải âu. - Hai tỏ vẻ tiếc
rẻ. - Trước đây đọc thơ văn, sách báo, nghe các nhà
văn đàn sáo, em cứ tưởng hải âu là bạn của thủy
thủ. Hoá nhầm! Hải âu chỉ là bạn của dân thuyền chài
thôi. Ngoài khơi xa này, làm gì có hải âu. Hải âu chỉ
bay ven bờ, cách bờ chừng trăm cây số là cùng. Vì
thế, đối với cánh lính biển chúng em, hải âu là
ngọn hải đăng báo hiệu đất liền. Nhìn thấy hải âu
là ngửi thấy"mùi"đất liền rồi. Nếu không
may, có phải hy sinh trên biển, được thấy bóng hải âu
chớp qua mắt trước khi nước khép mặt thì mừng lắm,
vì có thể hy vọng những mẩu xương tàn của mình sẽ
được sóng táp vào đất liền...
Tôi thoáng rùng mình, chợt nghĩ đến Thiêm. Quả là
ghê gớm thật! Có lẽ chẳng có cái chết nào dữ dội
như cái chết của người lính biển. Chết rồi mà vẫn
chẳng được yên. Cho dù chỉ còn một mẩu xương tàn
thì mẩu xương ấy vẫn phải giằng co, vật lộn với sóng
gió.
Tôi nhìn mống ra cửa lều bạt. Biển mù mịt sóng.
Đúng là ở đây không có hải âu, chỉ toàn ó biển,
một loại chim rất dữ tợn. Chúng có thể bay ngược
chiều bão. Sợ nhất là khi mót đẻ, có con đỗ ệch
cả xuống mái lều. Tấm bạt thùng xuống từng đám lõm
chõm, nom quái dị như những nhũ đá trong các vòm hang
cổ.
- Biến ngay! Đổ lầu của các bố bây giờ!
Hai giậm chân bành bạch trên sàn lều, rồi quát lên
nóc bạt. Mấy "nhũ đá"bỗng rùng rình. Một
quả trứng to cộ còn dính những vết máu, trượt lông
lốc qua mái bạt, rồi rơi bóp xuống nước.
- Đú đởn lắm vào! Cút!
Hai lại quát lên mái bạt. Rồi cu cậu co tay, thụi
tới tấp vào những cái bướu kỳ dị treo lủng lẳng
trên đầu. Bị cú đánh bất ngờ, bầy chim kêu ré lên.
Có con không kịp bay, rơi tuệch xuống biển. Chúng đập
cánh quàng quạc trên mặt nước, rồi bay chéo qua cửa
lều.../.
Trần Đăng Khoa
(Còn tiếp)