- Nếu không thể đi xa, anh vẫn hy vọng
về sự bao la mà anh chưa biết đến.
Còn nếu anh đã biết đến sự bao la
ấy có giới hạn như thế nào, liệu
còn thèm muốn nữa không...Mọi thứ ở
đây chỉ có một màu. Màu xám. Công nhân xây dựng
mặc áo phản quang đang im lặng làm việc
dưới tầng ngầm sân bay, giữa những
chiếc cột lớn loang lổ thép và xi măng.
Chúng tôi đi chầm chậm ngang qua họ, không
nghe thấy tiếng xe của mình, chỉ nghe tiếng
rì rì nho nhỏ, không rõ là âm thanh của những
chiếc máy sưởi gắn dọc theo tường
hay tiếng hơi thở đùng đục dưới
những chiếc nón bảo hộ trơn tuột
kia. Tất cả mơ hồ như những hình người
loà nhoà phía bên ngoài cửa kính xe mịt mờ hơi
nước.
Mưa rơi rả rích, và chắc chắn sẽ
còn tiếp tục rả rích như thế trong những
ngày tới. Mây xám cuồn cuộn trên đầu
ùn ùn kéo về phía đất liền hết lớp
này đến lớp khác, nhiều đến nỗi
có cảm giác rồi đến hết năm
cũng không cạn mây được. Tôi đang
ở sát bờ đông của Thái Bình Dương,
chỉ chừng một quãng chạy xe ngắn nữa
thì đến bờ biển Oregon. Đứng
ở bờ biển đó nếu nhìn ngút mắt
qua hết cái đại dương mênh mông không
núi non nào cản trở tầm nhìn, (một chuyện
hoang tưởng bởi chỉ cần bay bằng
Boeing 747 cũng mất hơn nửa ngày trời),
thì tôi sẽ gặp được bờ biển
thân thuộc của đất nước mình.
Chính xác như thế. Bởi cái bờ biển
cong cong nơi mà vào những ngày hè, ngày lễ
tháng tư, tháng năm, mọi người vẫn
thích đáp xe lửa đi suốt đêm để
được vùng vẫy, hay thả người
trôi lều phều ngắm san hô ngoài chân mấy
hòn đảo con con, chính là bờ tây của cái
đại dương đang phả hơi nước
ngập ngụa cái thành phố buồn tẻ tôi
đang ghé ngang đây. Rốt cuộc thì chuyện
đã trở nên đơn giản quá chừng,
đã thu hẹp lại trong lòng một bàn tay, ngắn
gọn như thể một quãng đường dài
năm phút đi xe máy từ nhà đến sở làm
và ngược lại.
Tôi bảo:
- Nếu chỉ nghĩ thôi thì rất đơn
giản, nhưng thực tế là một chuyện
khác. Bởi vì như anh muốn đến một
bờ của đại dương, anh phải làm
hộ chiếu, phải có thị thực nhập cảnh,
phải khai báo ở mỗi nơi anh đi qua. (Quyền
lực đôi khi chỉ thể hiện đơn
giản ở những cánh cửa nhỏ, hay có nơi
chỉ là những thanh gạt bằng inox lạnh lẽo
màu sáng choang). ở bờ tây, anh phải khai có
đem theo văn hoá phẩm đồi truỵ phản
động gì không, phim ảnh thì được tạm
giữ, tốt xấu sẽ được phân
định sau. Còn ở bờ đông thì người
ta sẽ hỏi cái gì trong túi của anh thế,
trái cây khô hay tươi, anh đem vào đây thứ
thực phẩm nào. Vâng, hiểu theo khoảng cách
địa lý thì đơn giản lắm, chỉ
việc đem dây ra mà đo, nhưng có những
khoảng cách khác không đo lường được.
Bởi thế, người mới không là chim.Xe chạy
chậm rãi trên con đường đẫm nước.
Hai bên đường là nhà thấp đèn đẹt,
lạnh lẽo. Những ngôi nhà làm từ những
container chứa hàng cũ, đứng lún trong cỏ
dại, những dòng chữ điện màu đỏ
chạy ngoằn ngoèo bên ngoài, xa xa nhìn nhoè nhoẹt
như mực viết lên tờ giấy ẩm.
Keith nói:
- Nếu chạy thẳng mãi con đường này,
chúng ta sẽ đến Seattle.
Nước mưa chảy trên những hộp thư
dáng tổ chim bồ câu đứng một chân bên
đường làm thẫm lên những vệt sơn
vằn vện màu vỏ trứng. Keith nhìn chăm
chú về phía trước, bắp tay cuồn cuộn.
Tôi nhớ bàn tay My nhỏ xíu, mảnh dẻ như
một chiếc lá non với những ngón tay mềm.
Ai cũng bảo, đó là số sướng. Muốn
biết chắc trong tương lai có sướng
thật hay không thì phải nhìn thêm gót chân (tôi phải
mất gần cả năm trời mới nhìn
được gót chân My), gót chân nhỏ, mịn,
mà không nứt nẻ gì là yêu cầu tối thiểu.
Nhưng với My thì khác, nàng viết cho tôi: Đây
là dịp để cho anh đi khắp nơi mà
anh muốn. Anh phải đi thật nhiều, và thư
kết thúc rất con gái: Sướng nhé! Cái thư
ấy bây giờ đang nằm trong túi áo của
tôi đây, nấp dưới năm tầng bảy
lớp những áo khác bởi tôi không quen
được với kiểu lạnh ẩm này, cứ
cóng lên như những ngày tháng chạp mưa phùn
Hà Nội.
Keith hỏi:
- Anh đã xem Mất ngủ ở Seattle chưa?
ít ra một con phố lát đá đọng nước,
hay một chiếc ghế gỗ dài ven đường
ở đó có thể cho anh một chút tình cảm
nào đó, khác với nơi đây.
Đó quả là một gợi ý hấp dẫn,
bởi vừa bước xuống sân bay tôi đã
thấy thất vọng với Oregon rồi. Đất
Mỹ mà còn có một nơi như vậy sao, buồn
bã quá chừng. Chỉ nhìn cái màu xam xám này thôi cũng
đủ biết những ngày tới sẽ buồn
như thế nào. Vả lại, đây cũng là một
dịp để tôi kiểm chứng xem đời
thường trong cái phim ấy thật đến
đâu, dịu dàng đến đâu, để tôi
có thể kể với mọi người rằng
tôi đã từng đi trên những vỉa hè sạch
bong và im lặng của Seattle, đã từng ngồi
chiếc ghế nơi Meg ghé ngang qua trong chuyến
đi tìm cuộc tình định mệnh của mình.
Và trên hết, với thêm một nơi đến
ấy, tôi sẽ làm thêm được một
điều cho mơ ước của My, (chi tiết
dặn dò nằm trong lá thư dưới áo), cho bạn
bè tôi, (những người lúc nào cũng dặn:
Đi nhớ chụp hình. Về nhớ kể chuyện
nghe!). Nếu bây giờ tôi nói, ừ, ta đi
đi, thì không ngần ngại gì Keith sẽ cho xe
lao về phía trước, bởi ở đây, nối
nơi này với nơi kia thẳng tắp một
con đường.Keith nói:
- Thật ra, quan trọng hơn cả chính là cảm
giác thực hiện được điều ta muốn.
Ví như anh không thích nơi này tôi sẽ
đưa anh đến nơi khác, không thích Seattle
thì sẽ đi tiếp đến thành phố khác
xa hơn nữa. Đôi khi, không vui không buồn,
tôi vẫn thích ngồi vào xe và đi mãi như vậy,
không phải vì nhu cầu biết thêm một nơi
mà vì cảm giác choáng ngợp rằng, con
đường ấy kéo dài vô tận, nhưng nếu
muốn, tôi sẽ tự đi hết cái vô tận
ấy.ờ, thì tôi cũng từng nghĩ về một
cảm giác như thế khi đi từ bờ
đông sang bờ tây, khi đi xuyên ngang miền
Trung nước Mỹ. Tôi đã đi thật nhiều.
Tôi đi máy bay, tôi đi xe, tôi đi bộ. Thậm
chí còn đôi ba ngày còn lại, tôi cũng tìm cách
ghé ngang đây tham lam cóp nhặt thêm một nơi
chốn để rồi phát hiện ra có một
Oregon như thế ở miền Tây Bắc, heo hút,
ảm đạm. Trong khi Keith nói, tôi nhìn qua cửa.
Cảnh vật lặng lẽ bên ngoài khiến tôi
như mềm nhũn ra. Tôi quá mệt mỏi vì những
chuyến đi dài rồi chăng? Hay tôi đã quá
mong muốn về nhà? Cái nhịp điệu đột
nhiên chùng xuống lúc này khiến tôi nhận ra rằng
dường như những ngày vừa qua tôi
đang cắm cúi thực hiện cái điều
toi nghĩ là ước muốn của nhiều
người, trước khi có đủ thời
gian cho chính tôi thật sự mơ ước về
nó. Tôi tóm lấy từng cơ hội, vội vàng
và manh mún, (đã là cơ hội thì không thể sắp
đặt trước sau được), chứ
không phải làm cái công việc mua sắm với
phong thái thong dong của người có tiền trong
tay.Keith vẫn đang lái xe về phía Bắc. Con
đường dài hun hút trôi tuột về sau, lướt
thướt như một dòng sông. Lúc này mùa đông
đã bắt đầu được hai tuần.
Cây hai bên đường xơ xác, vừa trụi
lá vừa ướt át. Thỉnh thoảng, vài ngôi
nhà nhỏ xuất hiện rồi mất hút, không
một bóng người. Mây từ phía đại
dương vẫn ùn ùn thổi ngang trên đầu.
Mưa trên con đường thẳng tắp này
và hẳn cũng đang mưa trên dãy núi cao kia.
Chúng tôi đang đi dần vào vùng núi đồi.
Tôi chợ nhớ một người bạn chỉ
quen biết qua điện thoại nhưng hầu
như năm nào cũng có dịp trò chuyện vài
lần. Anh ta nói địa chỉ nơi anh ta
ở đơn giản là thị trấn Núi Đèo,
Hải Phòng. Tôi chưa từng đến đó,
không biết trong thị trấn ấy có những
con đường ngoằn ngoèo vắt ngang qua
đồi núi giống nơi đây không, nhưng
đó thật sự là cái tên thơ mộng.
- Chúng ta quay về. Tôi bảo với Keith. Nếu
tôi đến được Seattle, tôi sẽ muốn
đến thị trấn kế tiếp cách đó
năm dặm, rồi đến Vancouver, rồi cứ
như thế mãi, xa hơn nữa. Anh không thể
suốt ngày ngồi lái xe cho tôi, mà tôi thì không biết
tôi đang làm gì, đến một nơi, hay chỉ
để thoả mãn rằng tôi đang muốn và
tôi đang đến. Thật ra, trong tôi lúc này cả
hai thứ đó đều không có.ở nhà giờ
này My đang ngủ ngon. Sáng mai khi thức dậy
nàng sẽ theo con đường thẳng tắp và
lớn nhất của Sài Gòn để đến
sở làm, tất cả mất mười bảy
phút. Tất nhiên, có những lúc chậm hơn thế
bởi phố sá ngày càng đông đúc và lúc nào
cũng sẵn sàng tắc nghẽn với với một
xe bánh mì đẩy dạo bên đường hay một
chiếc xe rác nặng nề xoay trở với công
việc chưa kịp làm xong. My luôn mơ ước
về những cuộc đi xa, (lá thư đầy
những chi tiết dặn dò lại cộm lên), nhưng
thật ra chưa bao giờ nàng nghĩ đến
việc đi xa hơn một chút, khoảng 30 phút
chẳng hạn, để băng qua một cây cầu
ra đến ngoại ô thành phố, nơi có không
khí trong lành hơn, cây lá xanh tươi hơn. Không
lúc nào My nghĩ đến việc đi thêm một
lúc nữa, ra khỏi con đường mỗi ngày,
cũng như những người khác, tất cả
chỉ có một nghĩa vụ lớn là sống
đúng giờ. Đi và về. Tôi hoàn toàn không
có lỗi gì nếu không đến được
Seattle.Keith quay sang nói, giọng tình cảm:
- Đôi điều không làm được
ấy sẽ giúp ta sống vui hơn. Nếu không
thể đi xa, anh vẫn hy vọng về sự
bao la mà anh chưa biết đến. Còn nếu anh
đã biết đến sự bao la ấy có giới
hạn như thế nào, liệu còn thèm muốn nữa
không.
Và thế là chúng tôi quay lại với ngoại
ô của Portland, vẫn những con đường
ướt, vẫn những ngôi nhà một tầng
hình hộp màu xám nay đã thẫm màu trong đêm
tối mênh mông của Miền Tây Bắc. Những
dòng chữ điện đỏ nhoè nhoẹt.
Dancers. Restaurant. Parking. Motel. Tất cả chậm
rãi mọc lên, rồi lui dần về phía sau, từng
thứ một, im lìm, lạnh lẽo, ướt
át. Mùa này đêm xuống nhanh. Vẫn mưa. Chúng
tôi tìm một quán ăn nhỏ nằm lọt thỏm
trong một bãi đậu xe lớn rào sơ sài bằng
kẽm gai, nhưng không có một chiếc xe nào
ghé lại. Một quán Philippines. Bên trong, bàn ghế
gỗ tróc lên những lớp vỏ màu nâu thẫm
và cửa kính dày đọng nước thành dòng.
Người phụ nữ chủ quán, tóc đen nhánh,
hơi xuềnh xoàng và khó đoán tuổi, lịch
sự lùi lại đứng im lặng sau quầy.
Keith hỏi:
- Rồi anh sẽ tiếc vì không đến
Seattle?
Tôi hướng về Keith, một nửa khuôn mặt
của anh chìm trong bóng tối:
- Một ngày nào đó tôi sẽ đến.
Keith nói:
- Nếu anh nghĩ sẽ đến, thì việc
sẽ diễn ra như thế.
Trong chiếc ghế bành bọc bằng vải nỉ
cũ kỹ đặt ở góc nhà, một đứa
bé con nằm lọt thỏm, hai chân quấn trong chiếc
chăn mỏng, hai tay nhỏ xíu đặt sấp
lên nhau đỡ lấy chiếc cằm bụ bẫm,
mắt nhìn tư lự mơ màng ra phía cửa.
Đôi mắt nó trầm lặng và buồn dẫu
tôi chắc rằng nó chưa thể biến buồn
là gì, bởi nó còn bé quá, chỉ mới chừng
năm tuổi. Thỉnh thoảng, đứa bé
đưa mắt về phía chúng tôi, ánh mắt
không nói lên điều gì cả, chỉ to tròn,
đen láy, ươn ướt như mắt con
Lem, con chó con ở nhà mà tôi rất yêu quý dù đám
lông trắng dài của nó thường xuyên vón cục
như sữa bột. Đứa bé vẫn im lìm bất
động như thế suốt bữa ăn, trong
khi mưa ngoài trời cứ rả rích với cùng
nhịp điệu không đổi từ sáng đến
giờ. Nếu trời cứ mưa mãi như thế
này đến hết ngày mai, hết ngày kia, mưa
hết năm này cho đến sang năm khác, thì
đứa trẻ ấy sẽ lớn lên ra sao, sẽ
đi về đâu nhỉ? Nó sẽ sống một
đời sống lu mờ giữa bao nhiêu cuộc
đời khác, hay sẽ trở thành một tay chơi
nhạc rock, một nhà thơ? Tôi không biết. Bây
giờ tôi thấy tôi sẽ không biết gì hết.
Ngay khi tôi bước qua cửa ra về, đứa
bé sẽ ở lại, sẽ nằm im lìm như thế
ít nhất cho đến hết ngày vô tư lự
này. Và trong hiểu biết còn lại của tôi,
mãi mãi đó vẫn là một đứa bé nằm
trong ghế bành. Mãi mãi như thế. Nhiều
năm sau nữa, nếu tôi vẫn còn nghĩ về
Seattle, có thể tôi sẽ đến được
thật, nhưng với đứa bé này thì tôi
không bao giờ gặp lại, cho dù tôi muốn biết
tường tận số phận nó biết bao. Nó
sẽ lưu lạc đâu đó, nó sẽ lẫn
vào đám đông. Đứa bé khác với Seattle,
đó là một cuộc đời. Nơi chốn
thì ở lại để chờ đợi,
nhưng một cuộc đời thì không.
Người phụ nữ chủ quán hỏi
chúng tôi ăn có ngon Myệng không. Tôi gật đầu.
Trên tường tờ lịch đã bị xé vội
đến ngày mai, ngày 21/11. Sau hai ngày nữa,, ngày
23/11, tôi sẽ đi làm, sẽ đi lại trên
con đường quen thuộc, sẽ sống một
đời sống khác cách đây nửa vòng trái
đất, song hành với bao nhiêu cuộc đời
khác xuất hiện lặng lẽ và biến mất
lặng lẽ nơi này, nơi kia. Bên ngoài trời
đen và sâu thăm thẳm, đó là bầu trời
mà tất cả mọi người đang cùng chia
sẻ, cũng như cùng chia sẻ những lần
nước xuống, những lần nước lên,
những lần trăng tròn, những lần trăng
khuyết. Mọi người cùng sống và cùng
chia sẻ với nhau bao nhiêu điều, nhưng tôi
vẫn thấy có cái gì đó xa cách, không hẳn
chỉ vì một tiếng gọi từ bờ đông
đại dương này không đến được
với bờ tây của chính nó, mà là một
điều khác, một điều gì đó thật
mơ hồ nhưng mệnh hệ như thể liên
quan đến số phận của mỗi con
người. Bên trong, Keith chậm rãi đi về
phía góc phòng, xoa đầu đứa trẻ với
bàn tay to lớn đen nhẻm của anh. Bà mẹ
người Philippines nhìn theo mỉm cười.
Keith bảo:
- Trông nó dễ thương quá. Cứ như một
chú chim non bị ướt hết cánh rồi./.
Phan Triều Hải
Sinh 13/2/1969 tại Quy Nhơn
Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh năm 1991
Truyện ngắn đầu tay: Vào đời
(đăng trên báo "Tuổi trẻ" chủ
nhật năm 1994)
Đã xuất bản (Tập truyện hoặc
truyện dài):
Vào đời
Những linh hồn
lạc
Quán bò rừng
Có một người
nằm trên mái nhà
Đi học
Điều mong muốn nhất: viết
một tác phẩm "không tiểu thuyết"
rất nhiều hiện thực nhưng mang tính văn
chương.
Tôi vẫn có một ý nghĩ rằng hầu hết
những truyện của Phan Triều Hải luôn gợi
cho người đọc nhịp điệu chậm
rãi, thủ thỉ của người kể chuyện,
dẫu câu chuyện ấy có như thế nào:
thâm trầm hay hóm hỉnh, dịu dàng hay đắng
cay. Lướt qua một vài truyện ngắn của
anh: Có một người nằm trên mái nhà,
Đường về miền Tây, Phía sau nỗi buồn...đều
mong manh nỗi cô đơn của con người
trong xã hội hiện đại; đôi khi có những
cái kết bỏ lửng lơ, khiến người
đọc mơ hồ cảm thấy một sự
hẫng hụt, một sự mất mát (Đợi
chuyến tàu đêm), nhưng đôi khi cũng chỉ
là một cái gì đó đã xảy ra, đã đến
và đã đi - một khoảnh khắc trong luỹ
thừa n khoảnh khắc ở cuộc đời
này, chợt sáng lên nhắc nhớ rằng đã
có một điều gì đó tồn tại (Dịch
nói)...
Từng học chuyên ngành Địa lý kinh tế
của trường Đại học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh và công việc đang làm
hiện tại cũng không liên quan gì đến
văn chương, nhưng dường như
văn chương đã chọn Phan Triều Hải
để biểu hiện một tiếng nói khác,
một khát khao khác trong mỗi con người, bằng
lối viết cứ như nhàn tản thế, chậm
rãi thế! Mặc dầu những bạn văn cùng
lứa với anh như Phan Thị Vàng Anh, Trần
Thanh Hà... khi khởi nghiệp thường
được nhắc tên trong các cuộc thi văn
chương trong nước, nhưng cái tên Phan Triều
Hải lại được bạn đọc biết
tới và đón đợi chỉ bởi những
truyện ngắn mà thời kỳ đầu hầu
hết anh đều đăng trên tờ Tuổi
trẻ chủ nhật. Hành trình đến với
văn học không ồn ào, nhưng người
đọc có thể nhận ra một dấu ấn
truyện Phan Triều Hải. Từ truyện ngắn
đầu tiên "Vào đời" đến những
truyện dài sau này, những điều mà Phan Triều
Hải viết cho thấy với anh không có một
"cuộc chơi văn chương", không có
việc dạo qua chốc lát mà văn chương
là thực sự thôi thúc kiếm tìm, thôi thúc sáng
tạo tự thân. Và chính bởi sự thôi thúc tự
thân như thế, dù muốn hay không, văn
chương sẽ đem đến cho anh trọn vẹn
những buồn vui của người làm nghề.
Có một điều may mắn hơn của thế
hệ những nhà văn như Phan Triều Hải,
đó là họ có thể tiếp xúc, cảm nhận
trực tiếp với những tác phẩm văn học
lớn của thế giới, nhanh chóng tiếp nhận
được những thông tin mới, những hướng
đi mới của văn học thế giới hiện
đại. Đi nhiều, giỏi ngoại ngữ,
đó là một lợi thế, nhưng "điều
quan trọng với một người viết
văn vẫn là ở khả năng sáng tạo từ
những câu chữ". Mong "thoát ra" khỏi
ba chữ "nhà văn trẻ" bị báo chí
đặt thành quen. Vừa được kết nạp
vào Hội nhà văn Việt Nam. Những tiểu tiết
đời thường như thế có phác hoạ
được một nét chân dung Phan Triều Hải?
Truyện ngắn Những con đường không
đến Seatle anh viết sau chuyến đi
"chơi mà học" ở trường viết
văn Writing Workshop, bang Iowa (Mỹ) trở về.
Phi Hà