NƯỚC CHẢY CHÂN CẦU

Xe qua cầu Quán Hàu thì dừng lại, lão Trung lập cập xách valy bước xuống. Chiếc xe nhẹ lướt sau lưng lão tự lúc nào, để lại con đường nhựa bóng loáng với hai lề cỏ xanh mướt. Trái tim đập rộn lên, khiến lão phải dừng lại một lúc để trấn tĩnh. Đoạn, lão chỉnh lại chiếc cà vạt, vuốt lại bộ comlê cho ra dáng Việt kiều về nước, run run rẽ xuống con đường đê. Mặt đê mềm cỏ chỉ sau mưa, như tấm thảm xanh ai lót ra đón lão. Làng Lương Hạ của lão ở kia, một vệt xanh bên bờ sông Nhật Lệ, ẩn trong những luỹ tre, những ngọn bạch đàn cao vóng và những bờ chuối xanh thẫm đang làm ngốt ngát cả hơi thở lão. Lão đưa mắt nhìn quanh. Không có bóng người. Như đứa trẻ chăn bò, lão thả chiếc valy ra đất và đổ sập người xuống, dang hai tay úp lên mặt cỏ, quên hẳn mình vừa từ một thành phố hoa lệ ở bên kia trái đất trở về...

Chao ôi, biền biệt ba mươi năm xa quê và hai mươi lăm năm xa xứ, thằng Trung đã trở về đây. Đê ơi. Cỏ ơi. Sông ơi. Và người con gái ấy ơi... Bao nhiêu nước đã chảy chân cầu... Người lão rung lên, nghẹn nấc. Lão miết cái mặt nhăn nheo vào đất và bấu chặt hai bàn tay gân guốc vào cỏ. Lão hít thở không biết chán cái mùi đất bãi nồng nồng lẫn với mùi cỏ tươi ngan ngát và thoang thoảng mùi bùn triền sông đang gờ nước rặc.

Ngày Trung cầm súng ra đi, con đê bom vằm tan nát, tre làng cháy loang lổ và chiếc cầu Quán Hàu bắc qua sông bom hất tung để lại những trụ lim lầm lì. Thắm đã đưa anh qua sông bằng đò nhà, ngay ở quãng sông này. Đang kỳ nước rặc, bãi sông trơ ra hàng chục bước chân. Hai người phải hì hụi kéo thuyền lên neo tận trớn nước cũ. Thắm xắn hai ống quần lên quá gối và vuốt hai ống tay váo vào quá khuỷu như mỗi lần đi bắt còng bắt cáy, con thuyền trườn đi trên bùn non theo sự điều khiển của nàng. Ba mươi năm xa, người đàn ông vẫn nhớ đôi bắp tay bắp chân tròn lẳn và rám nắng của người con gái miệt sông này... Hoá ra, lúc đó Thắm đã có mang thằng Hiếu, mà cả đôi vợ chồng trẻ vẫn không hay biết.

Như sực nhớ điều gì, lát sau, lão Trung lồm cồm bò dậy, môi vẫn dính vài lá cỏ và khuôn mặt đầm đìa nước mắt ửng lên vì cảm động, vì mừng tủi và vì mãn nguyện. Hoàng hôn bắt đầu loang trên mặt sông một màu tím nhạt. Sương như đám tơ mỏng vương nhẹ dưới chân dãy Thần Đinh mờ xa. Đôi cánh chim di mải mốt bay vào nền trời mây trắng lô xô như vẩy cá phương Nam và cánh đồng bên kia sông lúa đã uốn câu liêm trải dài đến tận làng Kim Nại, Thù Thứ đang lên khói bếp... Tất cả mang vẻ đẹp yên bình, hồn hậu nơi thôn dã lão mang theo ba mươi năm qua, giờ đang hiển hiện bằng xương bằng thịt trước mắt lão. Thế đấy, lão phải đi nửa vòng trái đất với gần trọn đời mình vì một cuộc chiến, mới đến được những giá trị cao sang và chân mộc thuở ban đầu của nó.

Không muốn vì sự xuất hiện của mình gây xôn xao thôn xóm, nhưng lại sợ trời tối, lọ mọ tìm không ra nhà, lão đứng dậy, sửa sang áo xống và xách va ly bước đi. Lão muốn về nhà vào lúc tranh tối tranh sáng, vừa đủ không ai nhận ra mặt, nhưng mình đủ nhận ra cái ngõ xưa. Làng lão ở trên vùng đồi cao, con đê chạy vào giáp làng thì gặp con đường trục ngoặt ra hướng Bắc. Đường làng đã thay đổi nhiều lắm, nhiều đoạn đổ bê tông rộng rãi và tinh tươm như ngõ phố. Vườn vẫn tre, vẫn mít nhưng đây đó nhà mái bằng, một số đã lầu cao kiểu dáng tân thời và trang nhã. Không tìm đâu ra một mái tranh và không còn dấu vết sự đổ nát, hoang tàn và khét lẹt mùi bom ngày lão đi.

Lầm lũi đặt những bước chân hồi hộp buồn vui và khiêm nhường vào sát mép đường, nhường chỗ cho lũ trẻ con giong bò về chuồng và người làm đồng về vội vã, lão Trung chăm chú tìm cái lô cốt Pháp nằm phía tay trái. Đây rồi. Ngày xưa, khi Mỹ ném bom, cái lô cốt này trở thành điểm trực chiến của dân quân xã. Tại đây, trong một đêm trực mùa hạ, Trung đã quen người con gái ấy. Từ lô cốt này, đi bộ trăm mét nữa, là đến nhà lão, nằm trên tay phải, nơi ngày xưa có hàng chè tàu thay bờ giậu.

Trái tim lão chợt đập rộ lên trong lồng ngực và bước chân trải bốn phương trời đây cứ ríu lấy nhau, khi nhìn rõ bờ chè tàu được xén vuông vức cẩn thận hiện ra trước mặt lão. Chao ôi, bao năm trời mà người ấy vẫn giữ gìn cho lão y nguyên tất cả, ngôi nhà ngói ba gian, hàng cau trước sân và khóm cam cuối vườn. Chỉ khác là, con đường giữa hai hàng chè tàu hình chữ L và sân đã lát bằng xi măng và cái sân hẹp cũng được đổ bê tông rộng rãi. Hàng cau ông trồng ngày cưới vợ, giờ cao vút vượt hai ba lần nóc nhà. Cái nhà ngói cũng khác. Ngày ông đi nó được dựng lè tè trên nền đất, cố ý ẩn dưới tán cây khế sum suê, bốn vách bằng đất nhồi rơm, giờ đây nó ở trên một nền móng bằng đá bề thế và cao vượt hẳn cây khế già. Nó còn được xây liền với cái nhà ngang dùng làm bếp cũng khá hài hoà. Cạnh đấy là cái giếng nước ngày xưa bằng đất, giờ được đặt những ống bi tròn. Và hình như ai đó đã thiết kế một nhà tắm, phía trên có san-tô-nô đựng nước rất đẹp. Tất cả sự thay đổi này khiến lão Trung do dự, sợ rằng Thắm gặp cơn túng khó đã bán ngôi nhà cho ai từ lâu. Nhà bếp thì đã sáng đèn, nhưng nhà trên vẫn còn tối om.

Lão xăn văn, định quay lui thì từ ngoài vườn tiếng một phụ nữ cất lên:

- Răng ông chưa chịu vô nhà?

- Thắm đó à? Tui đã về đây...

Lão Trung thả va ly xuống đất, lật đật chạy đến định nâng tay bà Thắm đang từ ngoài vườn bước lên sân. Nhưng khi hai người kịp nhìn vào mặt nhau một giây trong bóng tối nhờ nhờ, và tay ông sắp chạm tay bà, thì bà vội quay ngoắt người, cầm theo nắm sau khoai vừa hái được, bước vội vào nhà ngang. Ông nhìn theo lắc đầu, hiểu là bà chưa dễ tha thứ.

Điện tức thì được bật lên trong ngôi nhà ba gian tươm tất. Trên bàn thờ ở gian giữa, ảnh cha mẹ ông Trung được phóng to lồng trong khung kính, đang đăm chiêu nhìn ông. Ông thấy mình có lỗi rất lớn, vội vàng châm nén hương và sụp lạy rất lâu trước bàn thờ. Từ nhà ngoài, qua cánh cửa nách khép hờ, bà Thắm không bỏ sót một cử chỉ nhỏ của ông.

Bữa cơm tối được nhanh chóng dọn ra. Bà Thắm dè dặt cầm đũa, còn ông Trung tự nhiên nhưng chưa từng có ba mươi năm xa nhà. Ông chấm những ngọn rau khoai luộc mềm và xanh biếc vào bát nước mắm cay, rồi và cơm nhai như thanh niên. Rau hết, ông rưới nước mắm cáy lên mặt cơm, vừa ăn vừa hít hà thích thú.

- Từ từ thôi - Bà nhìn ông ăn, lườm yêu - Đi nước ngoài về, mà cứ như...

- Ngon lắm! Bên ấy không bói ra thứ này đâu!

Dầu chưa thể tự nhiên, nhưng cả hai cùng đỏ mặt. Bởi, ngày tiễn ông ra mặt trận, bữa cơm cũng chỉ rau muống luộc chấm nước mắm cáy, nhưng thư nào của ông gửi về cũng cứ nhắc hoài. Ngay cả khi Sài Gòn giải phóng, thư về ông vẫn ao ước có được ít chai nước mắm cáy, khiến bà Thắm lặn lội mang vô. Nhưng sự thể lúc đó đã không còn như trước, nên bà lại lễ mễ mang ra. Ba chai nước mắm cáy ấy, mùa nắng bà đem phơi, mùa mưa đặt cạnh bếp lửa, đỏ hồng như màu mật ong. Bà cất chờ đã hơn hai mươi năm nay.

Gần cuối bữa, bà Thắm dè dặt hỏi:

- Ông về được mấy ngày?

- Về hẳn!

Không nhìn bà, ông đáp gọn. Bà Thắm dọn bát đũa và bê ấm nước chè xanh màu mật ong rót đầy ra ly, lại buông câu thăm dò:

- Răng ông về có một mình?

Ông Trung hơi sững người một giây, nhìn sâu vào mắt vợ, lát sau ông hỏi lại:

- Thế bà bảo tui còn về với ai?

- Thế... cái cô Diệu Thuý có cái môi tô đỏ và khoé mắt tô xanh hồi đó...

Bà Thắm nói lí nhí, không biết mình vừa nói gì. Giải phóng rồi, ai cũng lao xao lô xô về nhà, riêng mỗi ông Trung chồng bà không thấy về. Một năm sau nữa vẫn bặt vô âm tín. Tin đồn bay về làng ông Trung sa ngã trước lối sống xã hội cũ, lao vào ăn chơi truỵ lạc, nợ nần giờ như chúa chổm. Bà Thắm lòng như lửa đốt. May có người làng cùng đơn vị ông Trung cho biết địa chỉ, thế là bà, hai tay hai đứa con dại, bươn bả đi tìm chồng. Bà cẩn thận ràng rịt ba lít nước mắm cáy ngon nhất mang theo.

Lời đồn đại quả không sai. Những tưởng vợ chồng, cha con sum vầy sau bao năm đạn bom xa cách, ai ngờ gặp nhau cứ sượng sùng như người dưng nước lã. Ông Trung báo cơm cho vợ con ở bếp ăn tập thể của bộ đội. Ban ngày, nói là bận công tác ông đi mất tăm. Tối đến, ông chân nam đá chân chiêu về nhà, rồi nôn thốc nôn tháo, rồi lăn ra ngủ như chết, cho đến sáng. Tóc tai bờm xờm, trùm tai trùm cổ, đi đứng lấc láo như một gã cao bồi. Ai nói cũng không nghe. Trông ông không còn dáng một sĩ quan hậu cần của tiểu đoàn nữa.

Một hôm, bà tha thiết nhắc ông về sớm ăn một bữa cơm với các con, ông nhận lời. Chiều đó, bà chuẩn bị món rau khoai luộc chấm nước mắm cáy mà ông ưa thích. Bà rất mừng vì ông đã giữ lời hứa. Nhưng khi vợ chồng, con cái vui vẻ ngồi vào mâm, chợt nhiên, ngoài ngõ bóng một cô gái xinh đẹp, phấn son loè loẹt thoáng qua. Bà chưa kịp hiểu ra ám hiệu của họ là gì, đã thấy ông Trung bỏ bát đũa, vội vàng mang áo ra đi. Hôm sau, ba mẹ con khăn gói lên tàu trở ra, ông Trung vẫn chưa về để chia tay mẹ con bà. Đó là những ngày cuối cùng của vợ chồng, cha con gặp nhau. Người lính đưa mẹ con bà lên tàu nói rằng, đó là một trong mấy bồ nhí của ông.

Tầm bậy. Đâu có! Ông Trung chối.

Nhưng hai tháng sau, quân cảnh đã ập vào nhà bà, tìm bắt ông Trung. Họ mang theo lệnh truy nã, lệnh tước quân tịch ông Trung về xã. Hay tin, bà Thắm đổ sụp xuống như một xác chết. Không ngờ, ông Trung lại trượt dài đến thế. Ông bán cả vũ khí, khoắng cả tiền đơn vị mới lĩnh về và cả tài liệu mật, rồi bỏ trốn không tăm tích.

Hơn thế nữa, mấy tháng sau, người ta báo tin dữ về xã, ông Trung đã vượt biên sang một nước bên kia bán cầu đã từng xua quân xâm lược nước ta. Gia đình bà không cách chi rửa được vết nhơ nặng nề đó. Công lao của bà bao năm đổ xuống sông. Con cái bà không cất mặt nổi với bạn bè. Chúng âm thầm đau đớn chịu đựng bao thua thiệt. Không ai nghĩ ông Trung có ngày lại trở về...

Bữa cơm trưa hôm sau có cả hai con trai ông, được dọn trên chiếc chiếu lớn trải giữa nhà. Ông Trung hồi hộp chờ đợi cả buổi. Khi chúng đến, ông muốn lao ra ôm chầm lấy từng đứa, âu yếm, hôn hít chúng như còn trẻ dại, cho bõ bao năm thương nhớ. Nhưng chúng chỉ chào hỏi ông qua loa, và cố ý không gần gũi lắm. Thằng Hiếu, con trai đầu của ông đã ngoài ba mươi, làm cán bộ hợp tác, đã vợ con nhà cửa ổn định. Còn thằng Nghĩa, con trai út của ông, làm ở nhà máy xi măng Linh Sơn, cũng sắp lấy vợ. Thằng Nghĩa có được trong một đêm mưa gió, khi ông hành quân từ nơi huấn luyện vào Nam, được phép ghé thăm nhà mấy tiếng đồng hồ. Chúng đều cao lớn, khoẻ mạnh và có nước da của người đồng bãi quê ông.

Sau vài tuần rượu, hai con trai của ông có vẻ cởi mở hơn:

- Chừ cha về, có chương trình chi không? Thằng Hiếu ôn tồn hỏi.

Ông chưa kịp trả lời, thằng Nghĩa đã nhìn xéo qua chiếc va ly nhỏ của ông đặt ở đầu giường trên, nói kháy:

- Cha về quê lần ni, định đầu tư vào cái gì?

- Không. Cha chỉ dưỡng già thôi - Ông trả lời, hơi tự ái.

- Nếu chỉ thế, sao năm xưa cha bỏ đi chi cho xa vậy? - Thằng Nghĩa hỏi mỉa mai.

- Nghĩa! Cha con mới về... Bà Thắm lo lắng ngăn con trai. Nhưng thằng Nghĩa hình như không giữ được uất ức bấy lâu trong lòng.

- Cha có biết, khi cha vui thú cùng vợ bé vợ mọn bên ấy thì anh con thi đại học vượt điểm đi học nước ngoài, vẫn không được báo học đại học trong nước? Buồn quá, con cũng bỏ thi đại học, đi làm công nhân. Hai chúng con phấn đấu cật lực, giờ vẫn chưa được vào Đảng... Tưởng cha làm vương tướng gì bên đó hoá ra, cuối đời lại đem nắm xương già về báo hại mẹ!

- Nghĩa! Không được hỗn!

Bà Thắm mắng con, lời nhỏ, nhưng đanh. Bữa cơm lắng xuống.

- Cha xin lỗi các con. Cha xin lỗi. Cha...

Ông Trung nghẹn ngào, đưa hai tay bưng mặt, nước mắt rỏ ra qua những kẽ tay gân guốc, già nua. Thắng Hiếu vội đỡ lấy ông:

- Con xin lỗi cha. Em con quá lời.

Thằng Hiếu đỡ cha đến ngồi trên chiếc ghế đẩu và rót cho ông ly nước lọc. Không khí gia đình căng thẳng và sượng sùng.

Đêm ông Trung không ngủ được, lục cục dậy gói quần áo. Từ gian dưới, bà Thắm cất tiếng hỏi:

- Ông định đi đâu?

- Tui định sáng ra ga lấy vé tàu đi...

- Thôi, chuyện qua rồi. Ông về được đây là quý rồi. Tui không để ông đi lần nữa.

Nhưng ông Trung không nghe, ông nhất quyết ra đi. Ông đã mua vé chuyến tàu 2 giờ chiều. Bà Thắm vội lo bữa cơm trưa cho ông.

Khoảng 10 giờ trưa, khi cơm sắp dọn ra, chợt ngoài đường cái có chiếc xe nhà binh đỗ lại. Tiếng người lao xao ngoài ngõ. Bà Thắm vội nháy mắt cho ông trốn ra phía cửa sau. Nhưng ông chưa kịp hiểu ra, thì một tốp ba sĩ quan đã bước vào sân. Bà Thắm hoảng sợ, mặt cắt không ra hạt máu, nhưng đã kịp đứng chắn trước mặt ông, hai tay khuỳnh khuỳnh như hai chiếc cánh của con gà mẹ; ý chừng không cho ai đến bắt ông. Ông Trung hình như không biết điều ấy, liền đứng lên định chào khách, thì cả ba quân nhân nhất loạt rập gót giày, đưa tay lên vành mũ, chào. Một người trong bọn họ lên tiếng:

- Báo cáo đồng chí đại tá. Chúng tôi được lệnh đón đồng chí từ chiều hôm kia, ở Hà Nội. Nhưng không tìm thấy đồng chí. Đồng chí Cục trưởng đoán chắc đại tá nhớ nhà quá, đã nhảy xe giữa đường, liền phái chúng tôi chuyển đồ đạc vào cho đồng chí và xin ý kiến đồng chí.

Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Giờ xin được dưỡng già ở quê.

Ông Trung nói và tươi cười quay lại định giới thiệu vợ với đồng đội, thì bà Thắm đã rũ xuống như tàu lá héo trên tay ông. Sự việc diễn ra ngoài sức chịu đựng của bà./.

Hữu Phương

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected]

Tổng Biên tập: ĐINH THẾ LỘC