Ngày ấy vừa tốt nghiệp bậc học
phổ thông, tôi nhận được hai tờ giấy
gọi: gọi nhập ngũ và gọi vào đại
học. Bấy giờ lửa chiến tranh ngùn ngụt
ở miền Nam đã lan ra toàn miền Bắc.
Lòng người nôn nao. Không ai cảm thấy sẽ
được yên thân một khi đất nước
gặp hoạ xâm lăng. "Giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh" huống chi là đấng
nam nhi. "Xếp bút nghiên theo việc đao
cung" với lứa trẻ chúng tôi thời
ấy là chuyện bình thường.Tôi nhanh và khoẻ
nên được chọn vào bộ đội
đặc công. Trường huấn luyện chúng
tôi ở trên miền sơn cước. Để
thành một người lính đặc công thực
thụ phải qua nhiều khổ luyện. Ban ngày
học lý luận, tập tành thể lực và các
miếng võ. Ban đêm là lúc kiểm tra và thử
thách mình - Thành bại sống chết là đây.
Ngoài những giờ trong thời khắc biểu,
chúng tôi ngủ lăn ngủ lóc. Đặt mình xuống
là ngày khò khò. Muốn kêu dậy trực ban phải
mang còi rúc bên tai. Đôi lúc có chút thì giờ rỗi
rãi lại thoáng nhớ về thành phố quê hương
với bao kỷ niệm ngọt ngào trong gia đình
và với bạn bè. Nhưng những hình bóng
ấy mờ nhoà ngay về nỗi bồn chồn
lo lắng cho những người thân ngày ngày vất
vả, bươn bả nơi sơ tán; lo nhà cửa
phố phường tan nát dưới đạn
bom... Chúng tôi lao vào rèn luyện và nôn nóng mong
chóng đến ngày ra quân để đánh cho
chúng nó tơi bời...
Ngày mãn khoá, tôi được xếp vào loại
khá. Cấp trên muốn giữ tôi ở lại làm
trợ giáo huấn luyện nhưng tôi một mực
đòi ra tiền tuyến. Mười ngày phép trước
khi lên đường làm nhiệm vụ tôi về
thăm nhà. Cha mẹ tôi sơ tán về quê. Mấy
em nhỏ đi học sơ tán theo trường.
ở nhà chỉ còn anh chị tôi vừa làm việc
vừa là tự vệ cơ quan. Bạn bè tôi mỗi
người mỗi ngả. Có người đã ra
mặt trận. Có người cặm cụi trên
những giảng đường tre lá ở rừng
sâu. Thành phố vắng vẻ, những con
đường rộng thênh thang, ngày năm bẩy
lần còi lúc báo động máy bay xâm phạm
vùng trời thủ đô. Thường buổi sớm,
tôi đạp xe về thăm cha mẹ, chiều lại
đạp xe ra thành phố, chẳng để làm
gì nhưng nghĩ tới ngày xa nó tôi thấy lòng
cứ nôn nao, cồn cào... Những ngày chuyển
đông, trời Hà Nội khô và hanh. Cơn gió heo
heo dứt ra những chiếc lá vàng cuối cùng rơi
bay lả tả. Chiếc lá bàng khô cong chạm mặt
đường còn bị gió kéo lê đi vang lên
âm thanh khô khốc và não nuột cứ ngân đọng
mãi trong lòng tôi. Trên chiếc xe đạp cũ, tôi
đi lang thang vòng quanh các phố phường... Bây
giờ tôi mới cảm thấy những gốc
cây, đường phố, mái nhà này gắn bó
máu thịt với tôi. Vậy mà tôi sắp phải
dứt nó ra đi...Khúc phố Hàng Khay thật ngắn,
quanh năm bóng cây trùm kín tưởng như đi
trong một hang dài. Mặt nước Hồ
Gươm xanh rêu lăn tăn những con sóng nhỏ.
Tiếng xe điện giục giã hối hả vang
vang trên đường. Tôi phóng xe bám theo con tàu
điện. Bỗng tiếng còi báo động hú
lên người ta chạy túa ra nhẩy xuống
các hố cá nhân dọc bên đường hoặc
nấp dưới các mái hiên nhà. Tôi vứt xe
trên hè phố, nhanh chân nhảy xuống hố và
kéo tấm nắp xi măng định che kín lại.
Tiếng súng dồn dập chen lẫn với tiếng
còi gay gắt quyết liệt. Tôi nhảy vọt
lên khỏi hố, nhấc bổng một bà già
lên và đặt xuống thay chỗ của tôi. Mảnh
đạn rơi lộp bộp trên mặt
đường lõm bõm trên mặt hồ. Tôi kéo nắp
đậy trên chiếc hố và lao vội tới
nép sát vào một gốc cây to ven hồ. Vừa
lúc một tiếng nổ chát chúa ngay bên kia
đường kèm theo tiếng rào rào sập đổ.
Bụi khói mù mịt một quãng đường.
Một người chạy chúi xuống như muốn
ngã, miêng phát lên không rõ là tiếng khóc hay tiếng
kêu: "A...A...A...!". Tôi hét lên: "Nép vào
đây". Người đó lao vụt tới ôm
chầm lấy tôi run rẩy và nức nở. Tiếng
bom, tiếng đạn, tiếng máy bay náo loạn
cả bầu trời. Lạch xạch... lõm bõm... vẫn
là những mảnh đạn rơi vãi quanh đây.
Người ấy co rúm lại, chúi đầu và
nép sát vào người tôi hơn. Tôi choàng tay ôm chặt,
cúi đầu phủ che cho người đó. Dường
như đã bình tĩnh lại, tiếng thở hổn
hển nhẹ dần và đều hơn, hơi
ấm từ người ấy phả sang và tôi nhận
ra trong vòng tay mình là một người phụ nữ.
Tiếng máy bay vẫn gầm rú. Tiếng đạn
nổ vẫn ỳ ùng. Người phụ nữ vẫn
nép chặt vào tôi với sự yên tâm đã
được chở che... Có lẽ bộ quân phục
màu cỏ úa trên người tôi đã là niềm
tin tưởng của cô và cũng là nguồn sức
mạnh vô tư nghĩa hiệp của tôi... cho
đến khi những tiếng ồn ào ầm
ỹ bớt đi người phụ nữ ấy
ngước nhìn lên nhưng rồi lại gục
đầu ngay xuống... Chúng tôi đã kịp nhận
ra nhau đều còn rất trẻ... Cô gái dụi
dụi trên vai tôi và nghe lời cô thủ thỉ ngượng
ngùng: "Em... sợ... quá!" Tôi phân vân tự hỏi:
cô sợ đạn bom hay cô sợ tôi - một anh
lính trẻ?! Tôi đứng y nguyên như vậy và
muốn nín thở để khỏi lay động
đến người cô dù chỉ là một chút
mong manh... Khi tiếng còi báo yên vang lên, cô đứng
thẳng người lại. Hai chúng tôi giáp mặt
nhau. Trời vừa sập tối. Hà Nội không
đèn. Trên khuôn mặt nhờ nhờ trăng trắng
tôi nhận ra đôi mắt cô còn ngấn lệ nhưng
nó long lanh, đằm thắm vương chút lo âu.
Chúng tôi lặng nhìn nhau... Cô đặt hai tay trên
vai tôi thân thiết. Tôi vẫn đứng ngây người.
Giọng cô êm ái dịu dàng: "Anh là bộ đội?".
Tôi sẽ gật đầu. Tôi không nghĩ gì hết.
Tôi chỉ thấy đôi mắt ấy sao đen mà
sáng thế... Lát sau tôi nói lời từ biệt:
"Anh sắp đi xa!". Vừa lúc tiếng
chuông tàu điện leng keng... leng keng... vang lên như
hối thúc. Hai tay cô níu vai muốn kéo người
tôi xuống và đột nhiên cô áp sát mặt
tôi, một làn môi lướt nhanh trên má, một
thoáng hương ngọt ngào từ hơi thở
người con gái thoảng qua. Tôi chưa kịp
nhận ra một điều kỳ diệu chợt
đến với mình thì cô đã vùng chạy theo
con tàu gửi lại một lời: "Chào...
anh...". Sau phút bàng hoàng, tôi đâm bổ ra lề
đường lấy xe đuổi theo cô. Con tàu
chạy như ma đuổi. Cô gái lật đật
chạy theo... Tôi áp sát bên cô: "Lên đây!"
Cô nhảy thật gọn lên sau xe. Tôi gò lưng
đạp. Cô vỗ vỗ vào tôi giục giã:
"Chuyến tàu điện cuối cùng... Em phải
vào trường kẻo lỡ...". Chiếc xe cà
tàng của tôi phải mang trên mình nó hai người
trẻ trung, chắc là quá sức. Tôi dồn hết
lực xuống đôi chân để đuổi kịp
con tàu nên không nói được câu nào... Hết
phố Hàng Gai... Hết phố Hàng Bông... Kịp tới
chỗ tàu tránh đầu đường Nguyễn
Thái Học, chiếc xe của tôi giáp được
con tàu đúng lúc nó từ từ chuyển bánh. Cô
gái nhảy vội xuống đường... Vừa
kịp níu tay vịn nhảy lên tàu. Tôi phóng xe kề
bên. Trên tàu hành khách chật cứng. Hai tay bám
trên tay vịn, chân vẫn đứng ở bậc
thang lên xuống, cô ngoái đầu lại nhìn tôi
và hét to lên: "Chúc anh... bình... an... nhé!". Tôi
lo lắng gào lên: "Khéo... nhé! Khéo nhé...!".
Con tàu vòn vọt vượt qua tôi... Tôi còn lẽo
đẽo theo sau tàu chạy vào phía Cầu Giấy
một đoạn xa...
Tôi vòng xe trở lại đi ngược chiều
về phía Bờ Hồ. Người tôi lâng lâng.
Đường phố tối om. Bóng người
nhập nhoạng và tất tả. Tôi tìm lại về
gốc cây lúc chiều. Bỗng nhớ tới cái hố
có người đàn bà mang thai xuống ẩn.
Tôi nhấc nắp hố lên nhìn xuống tối
đen. Tôi thò chân xuống khoắng: Trống
không! Tôi dắt xe tới gốc cây và ngồi
trên bờ cỏ, cố nhớ lại những gì
đã xảy ra ở nơi này chiều nay: Một
người con gái trẻ gục vào vai tôi không biết
bao lâu. Một nụ hôn đầu đời của
người con gái cho tôi lướt nhẹ và nhanh
như gió thoảng tưởng còn vương vất
bên tôi một vị thơm nồng. Tôi ngất
ngây sờ lên vai, sờ lên má mình... Trời đầy
sao. Có một ngôi sao tỏ lắm, cứ lấp la
lấp lánh. Lính đặc công cũng được
học nhìn sao định hướng. Ngôi sao sáng
rỡ ràng và lấp lánh kia là sao kim. Nó là sao hôm
ở phía tây buổi chiều, là sao mai ở phía
đông buổi sớm. Nó là ngôi sao ban chiều rạo
rực với người đang yêu. Nó là ngôi sao
khuê vằng vặc soi bên cửa sổ với tuổi
học trò. Và lúc này, bên bờ hồ Hoàn Kiếm,
một mình ngồi trên bờ cỏ tôi có cảm
giác như ngôi sao ấy rớt xuống vai tôi một
thoáng chiều nay...
Tôi xa thành phố thân yêu với sự lưu luyến
nhớ thương và nỗi buồn vời vợi
nghĩ về một ánh mắt, một nụ hôn
và một ngôi sao như thế...
Lính đặc công chúng tôi thường
"đi mây về gió", sống chui lủi
không ai biết ở đâu, hy sinh nằm xuống
không biết ở chỗ nào. Trải bao năm tháng,
tôi đã là người chỉ huy một
đơn vị đặc công có tiếng. Mật
khẩu trước giờ chiến đấu cho
anh em dù có thay đổi nhưng vẫn chỉ là
một ngôi sao ấy: kim...tinh, sao...kim, sao...hôm,
sao...mai, sao...khuê. Với tôi nó tượng trưng
cho một ánh mắt vừa cụ thể lại vừa
mơ hồ mà suốt đời tôi không thể
nào quên...
Ngày Hà Nội bị B52 đánh phá ở chiến
trường, chúng tôi xin được đánh một
kho xăng. "Chúng bay đổ lửa ở quê
ta thì ở đây lửa sẽ thiêu cháy tụi
bay!". Đêm bôn tập tiếp cận mục
tiêu, trong giờ phút chờ đợi hiệp
đồng, tôi ngước nhìn trời cao. Ngôi sao
Hôm rạng rỡ. Lòng tôi xôn xao xót xa nhớ về
thành phố quê hương. Ngôi sao càng nhìn càng
sáng, như là nó đang lấp lánh với tôi. Có
phải là ánh sáng, như là nó đang lấp lánh
với tôi. Có phải là ánh mắt ấy ngày nào?
Thoáng chút bâng khuâng. Tôi thanh thản chờ hiệu
lệnh... Khi tiếng súng đồng loạt nổ,
ngọn lửa phừng lên ngùn ngụt. Khói xăng
cuồn cuộn phủ đen một góc trời.
Bên ánh lửa hừng hực, vùn vụt tỏ mờ
bống đồng đội chạy ra phía hàng
rào. Một bồn xăng gần tôi phát nổ và
tôi bị cuốn phăng đi theo làn hơi thổi
mạnh...Tôi tỉnh dậy thấy mình tả tơi
nằm trên bụi cây năn lác gần sông. Tiếng
pháo, tiếng đạn nổ ùng oàng. Ngọn lửa
càng bốc cao phừng phực... tôi nghe tiếng lội
bì bõm phía bờ sông...
Tôi bò lê ẩn mình vào chỗ khuất. Bước
chân kia dừng lại... Tôi nghe tiếng hỏi nhỏ
đầu câu mật khẩu: "Sao...". Tôi vui
mừng ghép lại câu sau: "Kim!". Chúng tôi ôm
choàng lấy nhau "Sao Kim đây! Sao Kim đây!"
Mừng chiến thắng! Mừng đồng đội
bình an... Tôi ngước nhìn lên trời. Ngôi sao kia
như sà thấp xuống và càng sáng rực lên,
nó lấp lánh như cười sau những cuộn
khói đen ngùn ngụt! Sao Mai đấy! Trời sắp
sáng rồi. Chúng tôi muốn reo lên nhưng phải
nén lại cùng nhau rút về căn cứ trong ánh lửa
bập bùng dưới đất và ánh sáng xanh vằng
vặc của sao mai trên trời.
Sau hoà bình, tôi mang nhiều thương tật,
được cấp trên cho về học ở trường
đại học quân y. Bến xe điện Bờ
Hồ là nơi mấy năm trời tôi thường
lên xuống. Dù biết là lớp người
cũ đã qua rồi nhưng mỗi lúc chờ
đợi tàu ở đây tôi vẫn thấp thỏm
bồi hồi, mong mỏi có phép lạ nào cho tôi gặp
lại người con gái xưa. Tôi vẫn nhớ
như in đôi mắt ấy, cho dù bất chợt
gặp ở một hành tinh xa lạ tôi vẫn nhận
ra... Cái gốc cây xưa còn y nguyên đấy, tôi
không cảm nhận được nó già hơn chút
nào vì thân nó vẫn to lớn kềnh càng quấn
quýt và xù xì như thế. Bây giờ tôi mới biết
nó là cây lộc vừng. Vào mùa xuân cây xanh um mơn
mởn mượt mà. Nó trổ hoa hai vụ xuân
thu, lúc ấy trên trời dưới nước
xanh rờn, đỏ rực...
Vào một chiều êm ả, tôi mải mê ngắm
những cánh hoa tàn rụng xuống hợp lại
thành một tấm thảm đỏ bồng bềnh
trên mặt nước, lòng man mác hoài vọng về
một ký ức xa xăm... chợt nghe một giọng
nữ trầm trồ: "Hoa cây gì mà kỳ lạ
thế?". Tôi bừng tỉnh ngước lên: Một
cô gái trẻ nhìn thảm hoa rồi lại nhìn
tôi. Cô cảm thán trước vẻ đẹp lạ
kỳ hay cô muốn hỏi? Chẳng ngại ngần
chi, tôi nói thao thao, đại ý - Đây là cây lộc
vừng. Lá nó giống lá cây sung. Người ta
thường trồng nó bên bờ ao cho mát và cũng
để giữ bờ. Không biết cây này bao
nhiêu tuổi nhưng ít ra nó cũng đã sống
cả trăm năm. Quanh bờ hồ này bao nhiêu
cây có hoa sắc đỏ nhưng lộc vừng có
vẻ đẹp riêng. Những cánh hoa của nó xếp
ngang hai bên dọc theo một cuống dài ở giữa.
Trong cơn mưa rào xối xả, những chùm hoa
ấy đung đưa chao đảo trên những
cành lá tươi xanh mềm dẻo như bay
như lượn và mặt nước hồ xôn
xao lay động hệt như có ai đang giũ tấm
lụa đào... Cô lắng nghe chăm chú. Tôi chỉ
cái thân cây to tướng nói tiếp vẻ hơi
bí ẩn: "... Và chỗ này có thể làm nơi
tránh tên rơi đạn lạc một khi bí
quá...!". Cô nhìn tôi thán phục: "Anh học
khoa sinh, khoa văn hay khoa nghệ thuật sân khấu
đấy?". Tôi trả lời bâng quơ:
"Những gì thiết thân cần hiểu
rõ!"; "-Vậy cây lộc vừng này có kỷ
niệm đặc biệt lắm với anh!". Tôi
lảng chuyện: "Cô thử hỏi nó xem
sao!". Chúng tôi bắt chuyện với nhau tự
nhiên và thoải mái. Tôi tò mò hỏi tên cô. Cô ngần
ngừ rồi trả lời tinh nghịch: "-Thì
anh cứ gọi em là Lộc vừng đi!"... Mải
chuyện, chúng tôi tới bến tàu hơi trễ.
Chuyến tàu điện đi Cầu Giấy bắt
đầu chuyển động. Cô gái lo lắng
và cuống quýt... Dù không đi cùng một tuyến
đường nhưng tôi cũng vượt nhẩy
lên, kịp nắm tay cô kéo mạnh: "Lẹ
lên, Lộc vừng!". Trên tàu người ta chen
chúc. Bằng mánh riêng thời binh nghiệp, tôi len
lỏi tìm được chỗ cho cô và cả cho
tôi. Chúng tôi mặt giáp mặt nhìn nhau. Tôi nao nao
trong lòng: đôi mắt em sao đen mà sáng thế...
Chúng tôi quen nhau từ đấy. Rồi chúng
tôi yêu nhau... Bây giờ nàng đã là vợ của
tôi với hai đứa con là hoa trái của mối
tình khởi đầu từ đôi mắt ấy...
Gia đình tôi vào sống ở phía Nam nhưng Hà
Nội lúc nào cũng thao thức trong tôi. Mỗi
khi về thăm quê, tôi không thể không đến
Bờ Hồ, đến bên cây lộc vừng
ấy. Giờ đây không còn vết tích của
con tàu điện ngày xưa nữa.../.
Nguyễn Văn Thịnh