Mùa đông 1966. Trời giá lạnh, gió mùa đông bắc hun
hút thổi về. Con đường dọc bờ sông hôm nay hiu
quạnh, cây bàng trơ những cành khẳng khiu vươn lên
nền trời đầy mây xám. Một chiếc lá lặng lẽ rời
khỏi cành chao đảo rơi xuống mặt nước xanh ngắt
lạnh lẽo của dòng sông. Tôi thong thả bước chân trên
con đường dọc bờ sông ra phía Cầu Diêm, một cây
cầu lẻ loi bằng gỗ sơn hắc-ín đen sì. Cây cầu này
hầu như chỉ dùng cho những đứa trẻ chăn trâu sang bên
kia sông cho trâu gặm những mớ cỏ ngon lành mà mùa đông
không hề bị héo úa và luôn luôn mọc tràn lan trên
khắp bãi sông rộng lớn.
Một bóng người từ xa đi ngược chiều tới, tôi
nhận ra đó là Sâm. Một cảm giác lâng lâng nhè nhẹ dâng
trong tôi, hai má tôi tự nhiên nóng lên mặc cái gió mùa
đông bắc thổi đến. Tôi yêu Sâm, một tình yêu đơn
phương và tội nghiệp. Năm nay tôi tròn 16 tuổi, một cái
tuổi mà thằng con trai nào nếu mạnh bạo thì dám tự
cho mình cái quyền được yêu. Yêu là một cảm giác
lạ lùng trong tình cảm, nó bồi hồi một cách bâng quơ,
khó ở như giận dỗi ai, như thiếu thốn một cái gì...
Có lẽ chả phải tôi mà hầu hết những bọn con trai
trong làng đều chú ý tới Sâm. Vì Sâm đẹp nhất xã!
Đó là lời nói đầu miệng của bọn trẻ con trong làng.
Mà xã tôi to lắm chứ đâu là nhỏ! Nó gồm ba làng: làng
Hành Đông, Diêm Điền và Đông Bình nằm dọc theo bờ
con sông Diêm rộng lớn. Sâm là như vậy đó, ngay cả
bọn trẻ con chúng nó còn phải tôn thờ huống hồ là lũ
thanh niên choai choai chúng tôi có một chút văn hóa, hơn
hẳn thế hệ trước về cái khoản đã biết chữ !
Bởi vì cứ nhìn trong túi áo chúng tôi lúc nào cũng kè
kè chiếc bút máy Trường Sơn hoặc Ba Vì là biết ngay!
Ngày đó tôi si tình lắm. Có một lần Sâm đi trước
còn tôi đi sau, bàn chân nhỏ bé của Sâm in trên mặt đất
đầy bùn trông thật là đẹp (ấy là dưới con mắt tôi
nhìn lúc đó). Tôi lặng lẽ âm thầm dẫm lên dấu bàn
chân ấy từng bước, từng bước một. Đừng cười,
thời ấy chúng tôi toàn đi chân đất thôi. Với lại cái
mảnh đất chúng tôi sinh sống là loại đất Phù sa
của sông Hồng lúc nào cũng dẻo quánh, mùa mưa đến không
thể nào đi dép được, khi đi các ngón chân phải bấm
chặt xuống đất không có thì bị trợt ngã ngay!
Tôi yêu Sâm một cách khủng khiếp và có lúc mang màu
sắc lố bịch. Xin tiền mẹ ra phố cắt tóc, ông thợ
cắt tóc thẳng tay cạo trắng hếu hết tất cả tóc gáy
tóc mai, ấy thế mà tôi cảm thấy mình đẹp trai hẳn lên.
Sau đó tôi tìm mọi cách lượn qua nhà sâm để Sâm
thấy tôi "thay đổi".
Sâm có giọng hát hay tuyệt vời, ít ra là trong ý nghĩ
của tôi lúc đó. Mỗi lần sinh hoạt thanh niên, Sâm đứng
lên hát đơn ca là tóc gáy của tôi dựng đứng cả lên,
chân tay nổi da gà, tim đập loạn xạ không kìm chế
được.
Tưổi mời sáu của tôi gần như bị "say
cuồng" trong "mối tình" câm lặng.
Sâm đã đến trước mắt tôi với chiếc áo xanh màu
nước biển quen thuộc. To tướng một chiếc cổ áo lá
sen gần như che kín cả vai. Đấy là mốt thịnh hành
của các cô gái thời đó. Sâm cất tiếng nói rất tự
nhiên :
- Quang đấy à ! Sâm đang định đến nhà Quang đây.
Tôi sửng sốt miệng ấp úng giương đôi mắt to thô
lố nhìn chòng chọc vào Sâm.
- Ngày kia Sâm đi rồi, phân đoàn trưởng ạ ! Sâm
gọi đúng chức danh của tôi vì lúc ấy Sâm là phân đoàn
phó thanh niên làng tôi.
Tôi vẫn chưa hiểu gì, tiếp tục nhìn Sâm ngơ ngác,
sâm cười hồn nhiên :
- Quang làm cái gì vậy, trông Quang buồn cười quá!
Cái cười làm in rõ đôi má lúm đồng tiền.
- Này nhé! ngày kia Sâm đi đấy, Quang đã biết chưa ?
Gia đình sâm xung phong đi khai hoang miền núi đấy!
Tôi à lên một tiếng, trời ơi bây giờ tôi mới
biết, Sâm đã đi thật rồi! Cánh chim của tôi đã
chuẩn bị bay thật rồi. Tình yêu của tôi theo đuổi
bấy lâu cũng bay mất rồi chăng ?
Thằng con trai như ngậm tăm không nói được nữa
lời, chân vẫn đứng như chôn xuống đất, nhưng hắn cũng
biết đóng kịch, con mắt hắn xịu xuống cố tạo một
vẻ buồn xa xăm...
Nhẹ nhàng lớt tới, đối diện ngay trước mặt tôi,
ngón tay trỏ búp măng trắng muốt đặt ngang lên vành môi
trái tim chúm chím, Sâm nói nhỏ nhưngrất rõ ràng:
- Lên đó chắc Sâm nhớ Quang lắm đấy... Chẳng
biết người ta có nhớ mình không?...
Tôi gật mình, Sâm đã dùng hai từ "mình và người
ta"! ủa, sao nhanh quá vậy!!Sâm nói tiếp, mắt cố
tránh tôi và nhìn theo dọc triền sông xa tít:
- Sâm có món quà nhỏ tặng Quang đây. Về nhà mới
được mở ra xem nhé!
Sau khi đưa gói quà cho tôi bỗng nhiên mặt Sâm bừng
đỏ, Sâm cúi mặt xuống xòe bàn tay nhỏ bé che trán
quay ngoắt người lại chạy vào một ngõ hẻm mà tôi
biết chắc rằng ngõ đó không thể nào về nhà Sâm được
! Tô vẫn đứng ngây ra chẳng nói được lời nào, tôi
cũng chẳng hiểu Sâm chạy vào ngõ đó để làm gì ?
Trong tay tôi đây, cái vật vuông vuông nhỏ bé gói bằng
một tờ giấy trắng còn nóng hơi ấm từ trong túi áo và
từ bàn tay Sâm.
Và như chợt tỉnh, tôi cũng như Sâm vội vả chạy
về nhà như bị ma đuổi. Ôi! Tình yêu đến rồi, sao mà
nó đến "tốc độ" vậy, nó đến bất ngờ ở
một thời điểm mà ta không lường trước được trong
cái cuộc đời vô định này!
Tình yêu là của thế giới tinh thần nhưng nó được
cụ thể hoá bằng vật chất, với tôi nó là chiếc khăn
trắng muốt có thêu đôi chim bay trên hai chữ "kỷ
niệm" và một bức hình đen trắng tô màu một cách
vụng về của anh thợ ảnh ở thị trấn nghèo miền
biển quê tôi.
Chính đôi bàn tay nhỏ nhắn của Sâm đã thêu đấy,
nhưngôi sao mà thô thiển vậy, bởi vì Sâm đâu có
biết thêu! Chiếc khăn đó còn in lại chút mực học trò
mà chắc sâm đã giặt rồi bằng xà bông nhưng chưa
tẩy đi hết.
ảnh Sâm với nét mặt buồn nhìn xuống và giận thay,
cái anh thợ ảnh đã phá sắc đẹp của nàng bằng
những nét tô màu quá sẫm.
Vội quá, hạnh phúc đến một cách bất ngờ nên tôi
chẳng kịp nghĩ ra phải "hồi âm", vì vậy tôi
chẳng tặng lại Sâm một cái gì cả. Đó là sự cướp
không trắng trợn, nhưng trong tình yêu phải chăng có
những cái ta cướp không mà có thể tha thứ được!
Rồi sau đó những kỷ niệm chập chờn trong ký ức tôi.
Một đoàn người lộn xộn, ồn ào, tiếng trống ếch,
tiếng loa phát thanh... Đó là cuộc tiễn đưa những gia
đình đi kinh tế mới của xã... Bàn tay của Sâm vẫn
vẫy tôi..., chiếc xe ô tô cũ kỹ chở họ đi...
Trong hai ngày tôi đâu có đến nhà Sâm. Có nhiều lý
do, một trong những lý do đó là sợ ông bố của Sâm.
Do Sâm đẹp nên bọn con trai hay chọc ghẹo vì vậy ông
bố Sâm, một người có cái mặt sần sùi méo mó ấy
rất nghiêm khắc với họ. Đối với ông nếu ai đi
với Sâm thì ông đều cho là một mối nguy hiểm. Riêng
về phần tôi có đỡ hơn vì tôi và Sâm ở trong ban
chỉ huy phân đoàn. Nhưng thú thực tôi vẫn sợ ông như
thiên lôi vậy. Con người đó là một âm bản trái ngược
với vẻ đẹp thánh thiện của Sâm, nhưngtôi biết trong
ông vẫn có một cái gì nhẹ nhàng thơ mộng. Cuộc đời
này lạ như vậy đó! Tôi đã từng nghe ông hát chèo
với một giọng êm ái quyến rũ như Trương Chi ngày
ấy. Chả vậy mà trước khi ra đi ông đã đứng lên
ngẫu hứng là một câu thơ rất tuyệt diệu:
"Ăi cơm một bữa ba gà
Không bằng nước uống Sa Pa một ngày !"Nhưng mà...
Chỉ vài tháng sau ông và gia đình trở về đói rách
tả tơi... (chuyện này mãi sau tôi mới biết). Có anh chàng
tinh nghịch nào sửa thơ của ông:
"Ăn cơm với cũ khoai hà (khoai sùng)
Không bằng chết đói Sa Pa bò về".
Ôi, chuyện đời thật trớ trêu !Cũng vào năm ấy,
khi gia đình Sâm đi được hai tháng, chưa bước sang
tuổi mười bảy tôi đã đi bộ đội.
Những ngày trong quân ngũ trên ngực áo tôi luôn luôn
có chiếc mùi-xoa của Sâm, nó được gấp lại làm tư và
bỏ trong một bao ny-lông. Tôi không bao giờ sử dụng
tới, chỉ thỉnh thoảng mang ra ngửi mùi thơm tinh khiết
của mảnh vải mới ấy và đắm mình trong những kỹ
niệm đối với Sâm của tôi.
Bạn bè biết được có đứa cười nhưng cũng có đứa
ủng hộ. Thằng Ngôn có đôi má bầu bầu như con gái nhìn
tôi nghiêm nghị nói:
- Cậu làm thế là đúng!ấy thế mà chính trị viên có
lần gọi tên lên để "sạc" vì anh ta cho là
yếu đuối, tiểu tư sản. Tôi nghĩ thầm, tiểu tư sản
gì cái thằng tôi, bốn tuổi đã phải bám đuôi trâu trèo
lên lưng trâu để đa trâu đi gặm cỏ. Chín tuổi đã
phải cầm cái cày dài ngoẵng bằng cả thân mình để
tập cày, ông ở thành phố thì ông mới là tiểu tư
sản chứ.Đơn vị tôi là đơn vị đặc biệt, nên chúng
tôi không được phép viết thư về nhà. Thế là Sâm và
tôi bặt tin nhau.
Mùa hạ năm 1970, sau những trận chiến đấu vô cùng
ác liệt trên suốt dải đường 9 từ Đông Hà, Quảng
Trị xuyên sang tận Nam Lào, đơn vị tôi được lệnh rút
quân ra Bắc để cũng cố. Thực sự nó không thể nào còn
chiến đấu tốt được nữa. Đại đội tôi chỉ còn
12 tay súng nhưng hầu hết lại bị sốt rét rừng đốn
ngã từng ngày, từng ngày một. Những người bạn thân
thiết của tôi đã vĩnh viễn nằm lại trên những
mảnh đất xa lạ phía Tây Trường Sơn. ở nơi đó, mùa
mưa thì mưa trắng núi trắng rừng, mùa khô thì gió
cuộn bụi đỏ mù trời mù đất.Trên dọc đường hành
quân rút ra Bắc, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và tự hào.
Bộ đội kéo vào trùng trùng điệp điệp, anh nào anh
nấy ba lô nặng chịch, súng ống lỉnh khỉnh, nào mũ
sắt, nào giày, nào bao gạo... lại có cả mặt nạ
chống hơi độc nữa. những khuôn mặt đỏ bừng bừng
khi leo lên dốc. Họ trắng trẻo khỏe mạnh, đẹp như
những thiên thần với quần áo Tô Châu (Trung Quốc)
mới tinh... Họ giơ tay vẫy chúng tôi rối rít. Chúng tôi
nhìn lại bộ quần áo mình mà gớm ghiếc, nó rách như
tổ đĩa, dép thì bằng vỏ ô tô chiến lợi phẩm cắt
xén vụng về. Tôi cố ý tìm người quen để hỏi
chuyện nhà, nhất là chuyện Sâm, nhưng vô hiệu. Anh
bạn Ngôn của tôi nổi hứng đứng trên một tảng đá
gào to:
- "Các ông ơi cứ vào đánh nhau đi rồi sẽ biết
mặt!"
Tôi vội kéo tay hắn xuống và nghiêm mặt nói:
- Điên à! Cậu nói bậy quá !
Ngôn cười hì hì đấu dịu: "ừ xin lỗi nhé!".
Tôi là người chỉ huy nhưng cũng người bạn nối khố
của Ngôn khi mới vào quân ngũ nên chúng tôi coi nhau như
ruột thịt.Đồng chí Nghinh, chính trị viên, người Hà
Nội, có khuôn mặt khắc khổ ấy, người từng
"sạc" tôi là tiểu tư sản, đã hy sinh! Anh hy
sinh bởi một loạt rốc-két từ trực thăng bắn xuống,
tôi đỡ anh lên thì mồm anh chỉ còn ngáp ngáp như một
con cá. Thực sự tôi đã khóc, bởi vì tôi thấy nước
mắt tôi chảy ra ướt cả khuôn mặt trẻ trung của người
chính trị viên ấy!
Còn có một nỗi buồn khác là bức ảnh của Sâm không
còn nữa. Trong một lần bị pháo kích, chiếc ba lô của
tôi đã trúng đạn tan ra và văng hết xuống vực. Tôi
may mắn thoát chết mặc dù nằm cách đó khoảng 10m.
Hành quân đến Quảng Liêm (Quảng Bình), vào một
buổi tối, chúng tôi mệt nhoài. Miệng nhai vội mấy
nắm gạo rang trộn đường, chúng tôi lên giường lăn
ra ngủ. Riêng tôi không ngủ được, ở đây sao rệp
nhiều quá ! Nhà đồng bào ở đây tuy nghèo nhưngrất
sạch sẽ. Vì bộ đội qua lại hàng ngày nên rận, rệp
sinh ra nhiều vô kể. Mở chiếc khăn mùi-xoa phủ lên
mặt tôi nghĩ về quê hương. Trái tim tôi đập rạo
rực lên khi nghĩ mình sẽ được về nhà sau bao năm tháng
chiến đấu ác liệt tưởng chừng như không có ngày
về. Sâm ơi, anh sẽ về gặp em! nhưng gặp sao được !
Sâm mãi trên Nghĩa Lộ cơ mà, ý nghĩ đó làm tôi buồn.
Đời bộ đội chỉ có vài ngaỳ phép ngắn ngũi làm sao
mà đi tìm gặp được em! nhưng chắc chắn một điều là
tôi biết được tin tức về em trong những ngày tháng này
mà tôi chờ đợi từng giờ, từng phút. Sâm người con
gái lạ lùng đã chủ động tỏ tình trước tôi. Nàng
quá xa vời đối với những người tôn thờ nàng, còn
đối với tôi (thật may mắn) tôi gần gũi nàng biết
bao. Tôi đã ngấm ngầm yêu nàng nhưng chưa hề được
chạm vào một sợi tóc nào của nàng. Chỉ có chiếc khăn
tay này là bằng chứng vật chất của tình yêu giữa nàng
và tôi... Tôi thiếp đi nặng nề trong sự mệt nhọc
của những ngày hành quân căng thẳng...
Bỗng! Nghe văng vẳng từ xa những tiếng còi thổi lên
rất gấp. Báo động! Báo động! Tôi choàng tỉnh giấc.
Đồng chí liên lạc tiểu đoàn xuất hiện với bộ
mặt méo xẹo và bơ phờ.
- Báo cáo đồng chí đại đội trưởng, ngay bây giờ
lệnh của tiểu đoàn là chúng ta phải hành quân.
Tôi chẳng kịp hỏi han gì thêm, liền ra lệnh cho đại
đội tôi lên đường để bám theo đội hình tiểu đoàn.
Con đường hành quân ấy thật là vất vả. Dốc cao
dựng đứng, trời tối đen không hề có trăng sao, mây
đen ùn ùn kéo tới. Chúng tôi phải bám vào ba lô của
nhau để khỏi lạc.
- Mẹ nó chứ! Lúc đánh nhau thì không báo động, về
hậu phương yên tĩnh mong được nghỉ ngơi thì lại báo
động, đúng là rửng mỡ!
Tôi lại nghe cái giọng lẻo mép của Ngôn nói bậy
bạ, nhưng mệt quá tôi cũng chẳng thèm nói lại. Một
ý nghĩ ngồ ngộ trong đầu tôi: "Thực tình xưa nay
Ngôn đều nói có ý đúng đấy chứ".
Vào khoảng hai giờ sáng trời đổ mưa, một cơn mưa
phũ phàng như thù ghét đối với chúng tôi. Gió lớn
thổi mạnh làm cho áo mưa chúng tôi bị bay thốc lên đến
tận nách, thế là chúng tôi bị ướt sạch. Mệt quá, tôi
tự động cho đơn vị giải lao. Tôi biết chắc sẽ bị
phê bình đấy, nhưng lính của tôi quả thật đã kiệt
sức quá rồi.
Nhìn anh em ngồi chồm hổm gục đầu vào ba lô ngủ dưới
mưa mà tôi thương xót. Họ là những người trai rất
trẻ đáng nhẽ được bố mẹ cưng chiều trong những mái
nhà yên ấm, ấy thế mà bây giờ dưới trời mưa như
thế cái mệt nhọc đã làm cho họ ngủ được thì
thật là quá sức tưởng tượng.
... Những ánh chớp liên tiếp xé rách bầu trời, tôi
ngước nhìn theo ánh sáng đó thấy ở phía xa, hình như
trên đồi có một nghĩa trang liệt sĩ. Đúng rồi một
nghĩa trang thực! Một nghĩa trang không hề xây hàng rào
xung quanh, những chiếc bia chập chờn hiện lên trong cơn
mưa xối xả. Một ý nghĩ lạ lùng đến với tôi, thúc
giục tôi trèo lên sờn dốc để tới cái nghĩa trang cô
quạnh này.
Một chiếc đài tưởng niệm không cao lắm, xám ngắt
hiện lên trên đỉnh đồi. Dưới chân đài là hàng hàng
lớp lớp các ngôi mộ đất bị nước mưa làm cho lở lói
không còn ra hình thù gì nữa, riêng hàng bia thì mới
được quét vôi lại nên trắng xóa. Tôi rút đèn pin ra
soi vào chiếc bia đầu tiên: một con cóc to tướng ngồi
chồm chỗm dưới bia, nó giương mắt nhìn và vẫn ngồi
ì ra đó. Hàng chữ khắc sâu vào bia nên nhờ đó tôi đọc
được:
Nguyễn Thị Hải Hà, sinh ngày 21/12/1950. Tại Hành
Thiện-Xuân Hồng-Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà (nay là Hà Nam
Ninh). Hy sinh ngày... tháng 10 năm 1967.
Tôi xem tiếp bia sau, cũng là cô gái đồng hương của
tỉnh Nam Định với tôi và cũng trạc tuổi ấy. Còn
những bia sau nữa, cũng hệt như vậy. Họ chỉ khác tên
khác tuổi, nhưng cùng ngày chết. Tôi đau xót sững sờ:
bao nhiêu người con gái ở tuổi 17, 18 thậm chí 16 đã
chết ở đây! Cùng một ngày! Họ là ai ? Đúng rồi,
họ là những người thanh niên xung phong phục vụ chiến
đấu. Những đơn vị thanh niên xung phong không như đơn
vị bộ đội, họ thường là những người cùng quê cùng
tỉnh, nên khi họ chết tức nhiên các bia sẽ ghi cùng
tỉnh... Tôi nhẩm trong miệng những tên mà tôi đã xem
qua, không có người nào cùng xã với tôi... Phía xa một
tấm bia đổ nghiêng, chẳng hiểu vì sao nó lại bị nghiêng
? Tôi soi đèn pin vào và chợt tái người, không thể nào
tin vào mắt mình được! Hàng chữ khắc rõ ràng:
"Trần Thị Minh Sâm"... làng Hành Đông, xã Giao Bình,
huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Hà.
Trời! Sâm của tôi đây rồi! Cả làng Hành Đông
của tôi chỉ có mình em tên Sâm mà thôi, rồi cả họ,
cả ngày tháng năm sinh nữa, nhầm làm sao được!
Thế là anh đã gặp em tại đây, một nắm đất
lặng lẽ im lìm giữa rừng thưa hoang vắng này, giữa đêm
mưa gió tầm tã này! Tôi quỳ xuống hai tay ôm chầm
lấy ngôi mộ của Sâm. Hai mắt tôi nóng rực lên, khô
hoảnh không hề có một giọt nước mắt nào lăn
xuống. Sâm ở đây? Một người con gái yếu đuối,
mảnh mai, đẹp và dịu hiền như thế ở đây! Tôi
muốn gào lên, nhưng gió mưa có lẽ đã gào to hơn. Tôi
như mê đi, một cảm giác mà từ trước đến nay ở tôi
chưa hề có. Giá lạnh của nền đất ngôi mộ đã
chạm vào má tôi làm tôi tỉnh đôi chút... Những tia
chớp xanh lóe lên liên tiếp, không gian vang ầm tiếng sét.
Tôi nhìn xuống dưới chân đồi, đồng đội của tôi
từng đống, từng đống đen đen đang ngủ gục dưới mưa
lạnh giá... Lại một tia chớp sáng lòa, nghĩa trang rực
sang rồi lại chìm vào đêm đen vô tận... Theo thói quen,
tôi soi đèn xem đồng hồ, lúc đó đúng 4 giờ sáng ngày
21/6/1970.
Đợt ấy, chúng tôi ra đóng quân ở Hà Tỉnh, và cũng
như trước đây, chúng tôi không được viết thư về nhà.
Hy vọng về phép của chúng tôi hoàn toàn không có. Tháng
2/1971, kẻ thù liều lĩnh đổ quân ra đường mòn Hồ Chí
Minh. Chúng tôi gấp rút hành quân bằng cơ giới vào và
đã làm nên chiến thắng Nam Lào lịch sử. Trong trận
chiến đấu đó, Ngôn - người bạn thân thiết của tôi
đã ngã xuống.
Năm 1973 ký kết hiệp định Paris, gặp người em họ
của Sâm là lính mới bổ sung, mới biết chuyện của Sâm.
Năm tháng sau khi tôi đi bộ đội thì gia đình của Sâm
bỏ kinh tế mới trở về. Lúc đó, cuộc chiến đấu càng
ngày càng ác liệt, Sâm đã tình nguyện gia nhập thanh niên
xung phong của tỉnh. Đơn vị họ được điều vào
miền Tây Quảng Bình làm đường. Đây là đoạn đầu
của con đường chiến lược Trường Sơn nên kẻ thù ngày
đêm điên cuồng bắn phá. Vào một buổi trưa, mọi người
đang ngồi ăn cơm thì "pháo đài B.52" đã rải
thảm bằng bom bi vào đúng chỗ họ. Hầu hết họ đã
hy sinh, Sâm của tôi cũng trong số đó!./.
Đặng Hồng Quang