Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ
đường, viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại
giúp việc trong đề lao:
-Này, thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp
nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận
thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn
Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng
tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và
rất đẹp đó không?
Thầy thơ lại xin phép đọc công văn.
-Dạ, bẩm chính y đó. Dạ, bẩm có chuyện chi vậy?
-Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người
nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn, thì tôi cũng hỏi
thế thôi. Thôi, cho thầy lui. A, nhưng mà thong thả.
Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối
cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buồng giam đó
có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không?
Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài
viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt
ngục nữa không?
-Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
- ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?
-Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc
thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao
phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà
thấy tiêng tiếc.
-Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn
bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. Thôi,
thầy lui về mà trông nom việc dưới trại giam. Mai, chúng
ta phải dậy sớm để cho có mặt ở cửa trại trước
khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy
bắt đầu lấy thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt
hai lính. Chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên
không đánh kiểng đánh mõ, thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng
để mai tôi phạt nặng. Chớ có cho mấy thằng thập nó
đánh bạc nghe!
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gơm, phe phẩy
roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án
thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét
rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn
ngồi bóp thái dơng. Tiếng trống thành phủ gần đấy
đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng
bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối
mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn tha thướt. Lướt
qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ
một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung
cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên
nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy
như muốn trụt xuống phía chân giời không định.
Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng
kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm
phúc tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ
lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
Nơi góc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu
sở trên cây đèn nến vợi lần mực dầu. Hai ngọn
bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản
đóng dấu son ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu,
lấy que hương khêu thêm một con bấc. Ba cái tim bấc
được chụ nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người
ngồi đấy.
Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đá
ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư
lự, bây giờ đã biến mất hẳn. ở đấy, giờ chỉ còn
là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.
(1)Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn
nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết
giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi
ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bổ.
Ông Trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái
thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người
có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời
ở kiếp với lũ quay quắt.
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều
của thầy thơ lại. "Có lẽ lão bát này, cũng là
một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn
nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách,
một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không
phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi ông
Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày
cuối cùng còn lại, nhng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại
này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên. Để
mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ
liệu".
Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu
tên tù mà công văn chiều hôm qua đã báo trước cho
ngục quan biết rõ tên tuổi làng xóm và tội hình. Sáu
phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái
thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang
gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiếu loạn,
nếu đem bắc lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám
tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu
người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ
hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang
dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng nh
có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng
thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi
chờ đợi cửa ngục mở rộng. Huấn Cao, đứng đầu gông,
quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí:
- Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông
đi.
Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy
thành gông đầu cúi cả về phía trước. Một tên lính
áp giải đùa một câu:
- Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây
sẽ có người sành sõi dẫn các người ra làm trò ở pháp
trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông
lại phết cho mấy hèo bây giờ.
Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc
mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh
"thuỳnh" một cái. Then ngang chiếc gông bị
giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn
mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt
lấm tấm những điểm nâu đen.
Cánh cửa đề lao mở rộng.
Sáu người né mình tiến vào như một bọn thợ nề,
thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
Trái với phong tục nhận tù mọi ngày, hôm nay viên
quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt
hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng
đã rõ quá rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan
lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao. Bọn lính
lấy làm lạ, đều nhắc lại:
- Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy
để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong
bọn.
Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý
nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở
những mánh khóe hành hạ thường lệ ra. Ngục quan ung
dung:
- Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú
chớ nhiều lời.
Bọn lính dãn cả ra, nhìn nhau mà không hiểu. Sáu tên
tử tù có ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao
vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến
cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù. Mỗi lúc dâng
rượu, với thức nhắm, người thơ lại lễ phép nói:
"Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài
dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây, lạnh lắm".
Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu và ăn
thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng
sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Rồi đến một hôm,
quản ngục mở khoá cửa buồng kín, khép nép hỏi ông
Huấn:
- Đối với những người như ngài, phép nước ngặt
lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi
muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho.
Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng
cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin
cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất (2).
Ông đã trả lời quản ngục:
- Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều
là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều,
ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và
những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục.
Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là
những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho
ông Huấn bực mình thêm, khi nghe xong câu trả lời, y
chỉ lễ phép lui ra với một câu: "Xin lĩnh ý".
Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều
và có phần hậu hơn trước nữa; duy chỉ có y là không
để chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc
nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được
biệt đãi như thế cả.
Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không
thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm
tất của quản ngục. "Hay là hắn muốn dò đến
những điều bí mật của ta?". "Không, không
phải thế, vì bao nhiêu điều quan trọng, ta đã khai bên
ty Niết cả rồi. Ta đã nhận cả. Lời cung ta ký rồi.
Còn có gì nữa mà dò cho thêm bận".
Trong đề lao ngày đêm cửa tử tù đợi phút cuối cùng,
đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm
ở ngoài. Viên quản ngục, không lấy làm oán thù thái
độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những
người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người
ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi
cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Quản
ngục chỉ mong mỏi một ngày rất gần đây ông Huấn
sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết, ông
viết cho... cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã
mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện.
Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày
nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có
một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu
đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp
lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri
kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà
treo, là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục
khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới
quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được
chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y
nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình
mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời
mất.
Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái ngợt người
đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình Bộ Thượng thư
trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí
ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai,
tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi.
Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại,
cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại
cảm động nghe xong chuyện, nói: "Dạ xin ngài cứ yên
tâm, đã có tôi". Rồi chạy ngay xuống phía trại
giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải
kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản ngục, và ngập
ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án
tử hình.
Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười:
"Về bảo chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh
trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc
xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất
sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình
viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai
bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người
bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn
liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người
như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý
như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng
trong thiên hạ".
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có
tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có, đã bày ra trong một buổi tối chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi
phân chuột phân gián.
Trong một không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng
đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái
đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn
nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi
mắt lia lịa.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang
đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng
trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên
quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái
thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút
con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã
đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh
đạc bảo:
- ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay
chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một
bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi
tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một
đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm
quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...
Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà
ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi
hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. ở đây, khó giữ thiên
lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái
đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất
ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bước chân, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp
tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm
cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"./.
Nguyễn Tuân
Kiểm
duyệt thời Pháp thuộc bỏ mất bảy dòng chưa tìm ra
được.
Kiểm
duyệt thời Pháp thuộc bỏ mất sáu dòng chưa tìm ra
được.