"Chị đã mất - chú về ngay". Sau chuyến đi công
tác ở thành phố Hồ Chí Minh về, bức điện của ông
anh trai như một cú sét làm tôi bàng hoàng.Là con trai út
trong một gia đình đông anh em, sự ra đi mãi mãi của
những người trên là lẽ tự nhiên. Nhưng cái tin về
ngời chị dâu cả mất đi là điều tôi không bao giờ
ngờ tới. Không ai có thể quen được với sự vắng bóng
của những người thân yêu. Với tôi, từ khi còn thuở
ấu thơ, chị là ngời chị gái, người mẹ, là cô tiên
dịu hiền với những khả năng vô biên, là người không
thể vắng bóng trong cuộc đời...
Tôi vội vã lên chiếc xe sớm nhất về quê. Chiếc xe
khách ì ạch đỗ tại chợ huyện, tôi quầy quả xách túi,
thả bộ trên con đường về làng. Quê tôi nghèo, nằm
ven sông Hồng, lại là vùng đất giữa, mỗi lần đi
chợ phải dậy từ tờ mờ sớm. Tôi bồi hồi đếm
từng bước chân. Nhớ đến ngày nào vẫn hay theo chị
đi chợ. Mẹ tôi bảo: "Mày theo chị làm gì cho
quẩn chân?". Tôi thì cứ nhõng nhẽo đòi theo. Còn
chị thì cưng chiều tôi nhất nhà, sẵn sàng đáp ứng
những đòi hỏi rất trẻ con của tôi. Chị gánh trên
vai một gánh khoai nặng mà vẫn đi nhẹ nhàng, miệng
nhai trầu bỏm bẻm. ở quê tôi, các cô gái đã có
chồng rồi đều ăn trầu. Có lần đi chợ sớm, tôi gà
gật, lẽo đẽo chạy theo chị. Tới lúc tôi mỏi chân
theo không kịp, chị cõng tôi trên vai và tôi thì ngả đầu
trên bờ vai chị, ngủ ngon lành cho tới chợ.Sau này
lớn lên, dù đã đi dọc ngang đất nớc, mỗi khi bước
chân trên con đường đê về làng, lòng tôi vẫn hối
hả, gấp gáp, tưởng như mình bé lại. Với tôi, làng
quê gắn bó với những kỷ niệm thuở ấu thơ, gắn bó
với hình ảnh chị. Người phụ nữ mảnh mai luôn nhai
trầu tơi rói, có sức mạnh dẻo dai đến kỳ lạ và
tấm lòng mộc mạc thơm thảo như khoai, sắn. ít ai
thấy người phụ nữ tần tảo ấy ngơi tay từ sáng cho
đến tối khuya. Không, tôi không tin. Những người như chị
không thể mất. Chỉ chút nữa thôi khi về đến nhà, tôi
sẽ gặp lại chị đứng ở đầu ngõ với câu hỏi muôn
thuở: "Chú đã về đấy?". Câu hỏi quen thuộc
thay cho lời chào của chị không tỏ ra vồn vã, không khách
sáo nhưng âm điệu của giọng nói bao giờ cũng làm khóe
mắt tôi cay cay. Tôi biết, từ trong nhà chị đã nhìn
thấy tôi từ xa, chị ra đón tôi ở cổng để tỏ nỗi
vui mừng bằng một câu hỏi rất mộc mạc. "Khoai
luộc và mật ong phần chú trong chạn ấy". Lần nào
cũng vậy chưa cần hỏi thăm, chị đã có một thứ gì
đó phần tôi. Khoai lang là đặc sản vùng quê tôi, củ
lớn, vỏ đỏ au, khoai luộc lên, bẻ ra bở tơi, hạt
lấm tấm mịn màng như hạt phù sa, ăn vào ngon ngọt như
tấm lòng thơm thảo của người dân quê. Tuy đã đợc
nếm nhiều món cao lương mỹ vị ở đời nhưng bao giờ
tôi cũng ăn không biết chán món khoai lang chấm mật ong
chị dành phần tôi.Với chị, tôi luôn luôn vẫn là đứa
em bé bỏng ngày nào. "ăn xong đi tắm đi, quần áo
để đấy chị giặt cho". Câu nói ấy sao giống
của mẹ tôi thế. Mẹ tôi và chị, hai người phụ nữ
gắn bó với nhau, giống nhau kỳ lạ.Cây đa đầu làng
như một già làng với bộ râu tua tủa quanh thân đã
chờ đón tôi từ đằng xa. Bóng đa mát rợp một
khoảng đất rộng lớn, chồm ra cả những thửa ruộng
mới cấy. Cây đa cổ kính khiến mỗi lần tôi đi qua
phải dừng lại một phút như để trút hết bụi trần
trước khi trở lại là đứa con của dân làng. "Chú
đã về đấy?" Tiếng gió thoảng qua như tiếng chị
khiến lưng tôi ớn lạnh. Ngôi mộ của ai nằm kia mà còn
nguyên mầu đất, vòng hoa cha kịp héo. Không lẽ chị tôi
nằm đấy ? Không, tôi không tin, chỉ ít phút nữa về
đến nhà chị sẽ đón tôi ở cổng như những ngày nào.
Tôi tập tễnh bước lòng thầm mong bức điện kia chỉ
là sự lầm lẫn.
"Chú về đấy?". Lòng tôi run lên, chân tôi
muốn khụy xuống khi đón tôi không phải là chị mà là
anh trai. Như một sự vô tình anh lặp lại câu hỏi của
chị mỗi khi tôi về. Hay giờ đây anh thay chị thể
hiện tình cảm mộc mạc với đứa em trai? Tội nghiệp,
mới đó mà anh tôi đã già xọp, lưng còng xuống, đôi
mắt ngơ ngác như gà lạc mẹ. Anh vẫn chưa quên với
sự thiếu vắng bóng hình chị.
Anh nắm lấy tay tôi, mái tóc bạc trắng rung rung
"Chị mất rồi em ơi, khổ anh quá".
*
* *
Ngày ấy, tôi còn nhỏ xíu, tôi ngạc nhiên thấy hôm
ấy nhà tôi ai cũng bận rộn, vui vẻ, tôi nhõng nhẽo bám
theo anh trai, khuôn mặt tươi rói trong bộ quân phục
mới. Mấy hôm trước nghe anh nói sắp vào Nam chiến đấu,
mẹ đã khóc suốt. Vậy mà, sao hôm nay cả nhà vui thế?
Anh cười dí tay vào trán tôi: "Em sắp có chị dâu".
Tôi nhăn mặt. Tôi không thích chị dâu. Trong ý nghĩ tôi,
hình ảnh mụ dì ghẻ độc ác, người con dâu nanh nọc
trong các câu chuyện kể còn vương vấn. Vả lại không
có chị dâu thì tôi đã có khối anh chị rồi. Khác
với trí tưởng tượng của tôi. Chị dâu tôi như một
cô bé mới trưởng thành. Dường như chị mới bỏ chơi
chuyền, chơi ô ăn quan để đi lấy chồng. Ngày ấy anh
tôi 22, còn chị tôi 18 tuổi, ngay ngày đầu chị đã là
cái cớ để chúng tôi trêu trọc. Buổi sáng đầu tiên
ở nhà chồng, từ trong buồng bước ra, nhìn thấy ba
mẹ tôi ngồi ở bàn uống nước, chị nhanh nhảu:
"Cháu chào hai bác, hai bác mới sang chơi ạ".
Rồi sực nhớ ra, chị mắc cỡ chạy vụt vào bếp. Ba tôi
thì cười, còn mẹ tôi thì lắc đầu: "Con gái gì mà
vô ý", chỉ có vậy mà chị ngồi dưới bếp khóc
suốt. Sau đó ba ngày, anh tôi đi biền biệt. Trong nhà,
ba tôi là người hay bênh vực chị nhất. Còn mẹ tôi thì
vẫn hay xét nét những ngày đầu như những bà mẹ
chồng nhà quê.
Tôi ngồi xuống bậc cửa, lòng thổn thức. Mới đấy
mà đã hơn 30 năm, chị gắn bó với gia đình tôi, đồng
cam cộng khổ. Quê tôi đồng đất ít, gặt được đấu
thóc phải đổi cả đấu mồ hôi. Ba mẹ tôi ngày càng
già yếu, đông con. Chị là lao động chính, suốt ngày
quần quật ngoài đồng. Chiều về lại túi bụi việc
nhà. Riêng việc quét dọn và chăm sóc lũ em chồng là chúng
tôi cũng khiến chị mệt nhoài. Chúng tôi sắp hàng chờ
chị dội từng gáo nước, tắm cho từng đứa, dỗ dành
lúc đi ngủ, lúc giành ăn. Tới bữa cơm, sáu đứa
tuổi ăn tuổi lớn cứ rào rào như tằm ăn rỗi. Chị
ngồi ở đầu nồi xới cơm, chúng tôi cứ nhấm nháy
nhau, thi nhau ăn cho thật nhanh để chìa bát cho chị
xới. Đến khi chúng tôi đã ăn no thì chị chưa xong
một bát và nồi cơm đã cạn đáy. Có lần tôi phát
hiện trong túi áo chị có một cục cơm cháy. Tôi dọa
chị sẽ mét mẹ. Chị đã ôm lấy tôi và... khóc. Sau này
tôi mới hiểu, mỗi bữa cơm chị chỉ kịp ăn xong một
bát thì cả nhà đã ăn xong, không dám ngồi đến cuối
bữa, chị phải cất cơm cháy vào túi để ăn dần.
Tôi cũng có biết đâu rằng bao đêm, chị khóc âm
thầm trong cảnh chồng xa vắng, chịu những lời trách móc,
những quan hệ họ hàng phức tạp. Con dâu trưởng họ,
với làng xóm đó là một "chức danh" chỉ có trách
nhiệm nặng nề. Từ giỗ chạp, đình đám cho đến chăm
sóc gia đình nhà chồng, mọi việc đều do tay chị lo
liệu với một sự hy sinh âm thầm vô bờ bến. Chúng tôi
lớn lên, dựng vợ, gả chồng, cũng có chị. Cha mẹ tôi
già yếu mất đi cũng chị lo toan. Dường như những
biến cố lớn lao trong gia đình tôi, những lúc khó khăn
nhất, bao giờ chị cũng là người đứng ra đương đầu
với một thái độ tự tin, bình thản. Coi như đó là trách
nhiệm chính của chị. Trong bức tranh toàn cảnh của gia
đình tôi nếu không có chị, chắc hẳn bức tranh ấy
sẽ mờ nhạt lắm.
Một lần, hồi cha tôi đã mất, tôi về thăm quê
giữa lúc làng tôi đang mất mùa. Mẹ tôi đã hơn 70
tuổi. Thấy tôi về, chị mừng rỡ mổ một con gà,
một con gà duy nhất còn đang đẻ. Mâm cơm chỉ có ba người,
nồi cơm phía trên độn toàn là khoai. Chị xới hai bát
cơm cho tôi và mẹ, giành cho mình toàn khoai. Tôi ngạc
nhiên: "Các cháu đâu hết rồi?" "Ôi chúng nó
ăn no đi học hết rồi". Khi chị đi xuống bếp,
mẹ tôi mới nói: "Tội nghiệp con mẹ cả. Suốt
một tháng nay có bữa nào nên mâm, nên bát đâu. Cả nhà
chỉ có mỗi mình mẹ là được ăn cơm, còn mẹ con nó
toàn ăn khoai, ăn ngô. Mẹ bảo nó: "Ráng mà ăn
uống có sức khỏe còn nuôi con. Mẹ già rồi, ăn uống
thế nào cũng đợc, chết cũng chả sao. Nó bảo: Bà
chỉ nói linh tinh. Bà còn sống ngày nào, chúng con còn
nhờ ngày ấy. Nó nói vậy, chứ mẹ có giúp gì được
cho nó nữa đâu...". Nói rồi bà khóc. Miếng cơm
nghẹn đắng trong cổ tôi. Tôi đã nghe chuyện xa có người
con dâu cắt thịt mình nuôi mẹ chồng. Nhưng đó chỉ là
truyền thuyết. Còn chị dâu tôi...
Khi mẹ tôi sắp mất, con cháu về đông đủ cả. Chúng
tôi xúm quanh giường, chờ xem bà có trối trăn điều gì.
Mẹ tôi nhìn qua con cháu một lượt rồi hỏi: "Mẹ
cả đâu?". Đợi cho chị tất tả từ dới bếp
chạy lên, bà mới nói: "Các con phải thương yêu
nhau, nghe lời chị cả. Nó thay mẹ". Rồi bà xòe bàn
tay nhăn nheo ra bảo chị: "Con nhổ một miếng nước
bọt vào tay mẹ đi, mẹ đỡ nhớ con". Một giọt nước
mắt lăn trên thái dương, rồi mẹ tôi nhắm mắt.
Cho dù ba tôi trước kia hay trách mẹ tôi xét nét con dâu
nhưng cho đến lúc chết bà vẫn là người thương chị
nhất. Phải chăng sự đồng cảm phận làm dâu của người
phụ nữ suốt đời hy sinh vì chồng con khiến bà hiểu
và thương chị nhưng không nói ra?
*
* *
- "Chị chú bị u ác tính, đau có ba ngày rồi
mất!".
Tối đó dưới ánh đèn hiu hắt, anh tôi kể, khuôn
mặt của ông đại tá già suốt bao năm vào sống ra
chết vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng trước sự ra đi mãi
mãi của vợ.
Tôi nghĩ lại mà ân hận quá chú ạ. Suốt hơn ba mơi
năm tôi chỉ quen với sự hy sinh âm thầm của cô ấy.
Tới lúc chị chú đau tôi vẫn chủ quan bởi trong ý
thức tôi, chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy có thể ốm.
Cho tới lúc bệnh viện họ trả về, tôi mới cuống lên,
chả biết làm gì nữa. Trước lúc mất cô ấy tỉnh táo
lắm gọi tôi ra giường bảo: "Mình nằm xuống đây
với em, có chuyện này, em muốn nói với mình".
Tôi chiều ý nằm xuống cạnh cô ấy. Vợ chồng già,
con cái lớn hết rồi, còn âu yếm gì nữa. Nhng cô ấy
cứ ôm chặt lấy tôi hồi lâu rồi nói: "Mình à,
suốt chừng ấy năm là vợ chồng, mình có giận em điều
gì không?". Tôi lắc đầu mà trong lòng chỉ muốn khóc
thật to. Làm sao tôi có thể giận cô ấy trong khi cô
ấy đã thay tôi gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong nhà
từng ấy năm. "Em không qua khỏi được đâu. Em
chỉ ân hận không chăm sóc được mình lúc tuổi già.
Em có mong ước cuối cùng này, nhưng nói ra mình đừng cười
em nhé".
Thề có trời đất, lúc ấy tôi sẵn sàng làm bất
cứ việc gì để đáp ứng được mong ước cuối cùng
của cô ấy... Tôi đã vào sống, ra chết, đã có quyền
cao chức trọng, đã ra nhiều mệnh lệnh... làm sao lại
không thực hiện được ước nguyện cuối cùng của
vợ? Vậy mà tôi đã xụm xuống, tưởng như chết giấc
khi nghe cô ấy nói: "Em chưa bao giờ được nghe mình
nói "Anh yêu em" cả". "Nhưng lúc nào tôi
cũng yêu mình. Tôi có điều gì không phải với mình đâu?".
Tôi lắp bắp. "Em biết mình thương em, mọi người
thương em. Trước kia còn trẻ, mình đi biền biệt, đến
khi về thì đã già rồi. Nhng em vẫn muốn nghe một lần
mình nói câu ấy". Nói rồi cô ấy ngợng ngùng áp
mặt vào vai tôi khóc. Còn tôi, tôi không thể khóc được
nữa. Lòng tôi tê tái đau đớn. Tôi lấy chị chú chưa
kịp yêu đương, chỉ vài lần biết mặt. Đang ở trong
quân ngũ lại chiến tranh ác liệt. Trước khi đi nam gia
đình bảo lấy vợ cho cha mẹ yên tâm. Mình hồi ấy còn
trẻ thấy nói lấy vợ cũng thinh thích. Thấy cô ấy cũng
hay hay con mắt. Thế là cưới. Về sống với nhau mới
nảy sinh tình cảm, mới yêu thương. Nhưng tôi đi suốt
năm, suốt tháng, mỗi lần về phép vợ chồng lại
thấy ngượng ngùng như lần đầu mới gặp. Đến khi
vợ chồng mới quen hơi, bén tiếng thì lại hết phép.
Khi về hưu được ở gần nhau thì đã thành bà, thành
ông rồi. Còn âu yếm, anh em như lúc trẻ thế nào được
nữa. Vả lại tôi quen tác phong quân sự rồi cứ nghĩ
vợ chồng sống có nhân, có nghĩa là đủ. Cần gì lời
nói. Tôi đã làm chính trị trong quân đội ba mơi năm
trời, đã làm đến chức đại tá, tưởng đã hiểu
về con ngời. Vậy mà cuối cùng vẫn chỉ là một lão
già đầu trọc, chả hiểu gì về phụ nữ, về vợ mình
cả. Hơn ba mươi năm chị chú mòn mỏi chờ chồng, vất
vả hy sinh âm thầm chỉ mong ước nghe một câu dịu dàng
khen ngợi của chồng. Và suốt đêm đó tôi cứ ôm lấy
cô ấy mà thì thầm mãi câu: "Anh yêu em". Lần
đầu tiên trong đời tôi mới nói được câu ấy và cũng
là lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là tình yêu,
tình chồng vợ.
Tôi cứ ôm lấy cô ấy mà kể lan man. Những điều mà
lẽ ra tôi phải nói ra ba mơi năm trước. Sáng ra tôi
mới nhận thấy thân thể cô ấy đã cứng lạnh, đôi môi
phảng phất một nụ cười, bàn tay nắm chặt chiếc lược
đã mòn vẹt. Chiếc lược làm bằng xác máy bay tôi
tặng cô ấy ngày cưới. Và đấy cũng là món quà duy
nhất trong đời tôi tặng vợ...
Anh tôi khóc, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt héo
hắt, mái tóc bạc trắng rung bần bật. Không có gì
khổ não hơn trước cảnh một ông già khóc vợ. Khóc
khi hiểu ra giá trị thực của tình yêu, khi nó không còn
nữa. Khóc cho nỗi ân hận xót xa trớc những lỗi lầm
mà mãi mãi không lấy lại được. Tôi lập cập thắp nén
nhang trên bàn thờ chị, đứng tựa lưng vào tờng. Nhưng
đâu phải chỉ mình anh tôi có lỗi. Sự xa cách, cuộc
chiến tranh đã cuốn hút tâm trí con người. Nó bắt
buộc người ta phải dồn nén tình cảm cá nhân, tạm gác
một bên những mong ước đời thường. Cuộc chiến
tranh đã làm bao người ngã xuống, để lại bao nỗi đau
và cuộc chiến ấy cũng tạo nên biết bao những anh hùng.
Nhưng phía sau những anh hùng ấy là những ngời phụ
nữ như chị dâu tôi. Họ yêu thương, mòn mỏi trông
chờ, hy sinh tất cả. Họ không cần đến những tấm huân
chương, những chức vị mà chỉ ước ao một câu nói
dịu dàng của người chồng./.
Hoàng Tuấn