"Tu, tu, tu..."
Tàu Đồng Nai kéo ba hồi dài. Mọi người
đổ cả ra boong. Ai mà chẳng muốn chào tạm
biệt Sài Gòn lần cuối. Sau trận mưa
đêm, trong ánh lê minh, thành phố bừng dậy
như một cô gái vừa tắm gội: Trong trẻo,
tươi tắn. Những ngôi nhà cao ốc nhiều
tầng, nhiều mầu vươn cao. Lá cờ
đỏ sao vàng trên cột cờ Thủ Ngữ lộng
gió sớm, tung bay.
- "Anh Lâm!"
Đột nhiên một tiếng gọi cất
lên cao vút, riêng biệt trong tất cả những
âm thanh. Trên bến, một người phụ nữ
vừa chạy dọc theo cầu tàu vừa vẫy
gọi ai đó đang đứng trên boong. Chị
mặc bộ bà ba đen gọn ghẽ, tay cầm
chiếc khăn rằn choàng đầu. Hẳn chị
mới tới. Lúc tàu nhổ neo, tôi không thấy
ai mặc bộ đồ bà ba đen như chị.
- "Anh Lâm... âm!"
Không ai đáp lại những âm thanh như òa vỡ
ấy. Chị đứng sững lại, tay buông
thõng, thất vọng. Tôi quay phắt lại những
người đang đứng trên boong. Vì chợt
nhớ đến anh Lâm - người bạn đồng
hành lớn tuổi - một phóng viên nhiếp
ảnh giàu cảm xúc đã xông xáo trong chiến dịch
lịch sử này từ ngày đầu cho tới
phút chót. Hay chị tìm anh ấy. Anh không có mặt
trên boong. Thật lạ. Tôi chạy bổ xuống
dưới hầm tàu. Anh bạn tôi đang ngồi
trầm ngâm trong câu lạc bộ thuyền viên,
chân co chân duỗi, lưng dựa vào chiếc balô
dã chiến. Bên cạnh anh, chiếc máy ảnh lắp
sẵn ống têlê và một lá thư đang mở.
Nhưng tàu đã ra xa bờ, bắt vào luồng
chính và đang lao đi với tốc độ ngày
một nhanh. Cảng xa dần, người trên bến
nhìn không rõ nữa. Anh bạn tôi xô ra tận phía
đuôi tàu, cố giơ chiếc mũ tai bèo quay
những vòng rộng trên đầu làm hiệu.
Phía xa, thoáng chiếc khăn rằn bay lên trong nắng...
Tàu rúc hồi còi tạm biệt cuối cùng...
Bến bờ lùi khuất. Biển đón chúng
tôi trong mầu xanh mở tận chân trời. Từng
đàn hải âu bay theo dập dờn, chốc chốc
lại chao mình trên mặt biển loáng nắng.
Ngoài tiếng máy nổ rất đều, tiếng
khua động của chân vịt, chỉ có tiếng
sóng, tiếng gió quyện nhau mê mải...
"Quê hai đứa tôi ở Phan Thiết..."
Trở lại câu lạc bộ thuyền viên, anh
bạn tôi đã vào đầu câu chuyện của
mình chân tình như vậy. Trong giọng ấm áp,
thủ thỉ của anh, ba tiếng "hai đứa
tôi" gợi lên sự gắn bó tới máu thịt.
...Chuyện bắt đầu từ bữa cưới
anh Hai, anh con ông bác ruột của Hoa ba mươi
năm trước. Ngày ấy Hoa mười bảy
tuổi, còn tôi mới hai mươi ba. Biết nhau
thì từ những ngày còn nghịch nước, câu
tôm ở sông Phan Thiết - sông này bà con quê tôi gọi
là sông Mương Máng, nhưng mãi tới bữa cưới
đó tôi mới để ý đến Hoa như
nghĩa người con trai phải lòng một người
con gái.
Tình cờ ngồi cạnh nhau trong bàn tiệc, lại
bị mọi người cắp đôi, tôi và Hoa
ngượng ngập ghê quá. Má tôi và má Hoa cũng
đến dự cưới. Vốn là thân tình,
hai bà đều có ý chắp nối cho hai đứa.
Cũng mới thế thôi chứ chưa có chuyện
ăn hỏi, gả bán gì. Tôi ở phố Gia Long
nhà Hoa ở phố Nhà Thương bên kia sông. Ngày
nào xách giỏ ra chợ Hoa cũng phải đi
ngang qua nhà tôi. Không bao giờ cô ấy dám nhìn vào
mà cứ cắm đầu đi như ma đuổi.
Có một lần tôi gọi, cô ấy quay lại, mặt
đỏ bừng, lúng túng đến tội nghiệp.
Bao năm rồi mà tôi vẫn nhớ tiếng guốc
như ríu lại của cô ấy. Tôi cũng yêu thế
thôi chứ chưa nghĩ đến chuyện xây dựng
gia đình. Tuổi thanh niên thời đó lãng mạn,
thích bay nhảy.Thế rồi tôi thoát ly theo kháng
chiến. Năm 1951 tôi được tổ chức
phân công về hoạt động nội thành. Cơ
sở bể, tôi bị mật thám bắt giam
ở nhà lao Phan Thiết. Tuần nào Hoa cũng
đến. Vẫn chiếc nón lá và bộ bà ba
đen gọn ghẽ như Hoa thường mặc
mỗi sáng đi chợ. Tôi nhớ mãi buổi
đi làm cỏ vê ở tỉnh đường
Phan Thiết, lính gác nghiêm ngặt là thế mà Hoa
cũng len lỏi vào được. Lần ấy
người lính gác tù cảm thông đã cho tôi và
Hoa núp dưới chiếc tăng-xê của Pháp,
nói chuyện. Ba tháng sau chúng đưa tôi ra xử
và kêu án mười năm tù. Tù chưa đầy
năm, bắt được cơ sở tôi vượt
ngục. Đêm đó tôi lần về Phan Thiết
định thăm má tôi và Hoa lần cuối rồi
móc đường chiến khu. Nào ngờ lại
sa vào lưới mật thám lần nữa. Chúng
đầy tôi ra nhà lao Đà Nẵng. Tháng 10 năm
1954, khi Hiệp định Genève ký kết, chúng
trao trả tôi ra miền bắc. Gấp gáp quá, tôi
không kịp tin Hoa biết. Từ Đà Nẵng xe
chở tôi xuống tàu rồi đi thẳng. Lúc
tàu rúc ba hồi còi dài, tôi nôn nao cả người.
Mọi người giơ hai ngón tay chào và hẹn
nhau ngày về. Tôi cũng giơ tay chào hẹn, mặc
dầu trên bờ không một ai thân thiết...
Thế rồi biệt tin từ ngày ấy. Suốt
21 năm qua, tôi tìm mọi cách mà không sao liên lạc
được với Hoa và gia đình. Đến
ngay một tấm ảnh của Hoa cũng không có
nốt. Tuy chưa ăn hỏi và làm lễ cưới,
nhưng rất tự nhiên tôi nghĩ Hoa đã là vợ
tôi. Chính cái ý nghĩ không có gì đổi khác
được ấy, đã nhắc nhở tôi rất
nhiều đến trách nhiệm của mình trong những
năm tháng xa cách. Tôi làm báo, đi nhiều, tiếp
xúc nhiều và đã không ít lần phải đấu
tranh với những tình cảm chớm nở.
Đến những năm cuối của tuổi
40, ý định xây dựng gia đình không còn
thôi thúc tôi nhiều nữa.
Hiệp định Paris ký kết, tôi được
cử đi công tác ở Quảng Trị và có mặt
ở bờ sông Thạch Hãn trong chuyến trao trả
tù đầu tiên. Khi chiếc thuyền chở anh
em tù cập bãi cát bên này sông, mọi người
ùa xuống đón, tôi giơ chiếc máy ảnh chụp.
Một khuôn mặt rất đỗi quen thân chợt
hiện lên trong ống kính. Tôi sững người,
buông máy.
Người tù đầu tiên đặt chân lên
bãi cát, sau một thoáng ngỡ ngàng nhào đến
ôm lấy tôi. Đấy chính là anh Hai, anh con ông
bác ruột Hoa mà gần 30 năm trước tôi
và Hoa đã đến dự cưới.
- "Đây, chồng cô Hoa đây. Ngày trao trả,
cô ấy không còn nữa...!" - Anh Hai giới thiệu
tôi với các bạn tù. Những giọt nước
mắt lớn lăn trên gò má xương xẩu của
anh.
Trời Quảng Trị âm u từ sáng, và đến
lúc ấy bỗng nổi lên một cơn giông lớn.
Mưa như trút. Bãi cát, dòng sông, cánh đồng
và tất cả nhòa nhoẹt dưới mưa. Tôi
đứng bàng hoàng trên bãi cát. Một cái gì lớn
lao, thân quý, gần gũi ghê lắm trong đời
tôi đã mất đi. Những năm tháng đợi
chờ đã kết thúc như vậy...
Qua anh Hai, tôi được biết Hoa đã trọn
tình với tôi suốt mấy chục năm trời.
Năm 1958, khi tía tôi qua đời, Hoa đến
xin để tang. Thấy chưa ăn hỏi cưới
xin gì, sợ ảnh hưởng đến hạnh
phúc của Hoa, ông chú tôi đã ra sức khuyên ngăn,
nhưng không được. Năm ấy má tôi lại
lâm bệnh nặng. Hoa đã lo lắng vẹn toàn
đám ma cho tía tôi và chăm sóc má tôi tận tình
chẳng khác gì người dâu cả. Thấy hoàn
cảnh đất nước chia cắt lâu dài,
tin tức không hề có, nhiều lần má tôi
khuyên Hoa đi lấy chồng nhưng Hoa vẫn một
mực đợi chờ. Năm 1968, sau đợt
Tổng tiến công Tết Mậu Thân, cơ sở
thành phố bể bạc, Hoa bị bắt. Mãi lúc
ấy má tôi mới biết Hoa cũng là người
của kháng chiến. Đầu năm 1969, bọn
cai ngục nhà tù Phú Tài (Quy Nhơn) đầy Hoa
ra Côn Đảo với cái án chung thân. Một
tháng trước ngày Hiệp định Paris ký kết,
đang đêm chúng kêu Hoa và hơn hai chục chị
em khác ở trại biệt giam tù chính trị xuống
tàu, nói là có lệnh của thượng cấp kêu
về Sài Gòn gấp. Những ngày ấy tụi Mỹ
ngụy ráo riết thủ tiêu tù chính trị. Ra
ngoài khơi chúng xô tất cả chị em xuống
biển. Chính tên lái tàu trong một lần say rượu
đã lộ chuyện này, gây một làn sóng căm
phẫn trong toàn đảo. Những ngày ấy anh
Hai cũng bị giam giữ ở ngoài đảo nên
biết tin này.
Chúng tôi lên boong. Câu lạc bộ lúc ấy
đông người nên không tiện những điều
tâm sự.
"Thế rồi tôi xây dựng gia đình, mới
năm ngoái thôi"- Ném mẩu thuốc hút giở
xuống biển, anh bạn tôi tiếp tục câu
chuyện của mình.
Nhà tôi người Hà Nội, làm công nhân trong một
xưởng máy. Chẳng giấu gì anh, cô ấy
đã có một đời chồng. Những ngày hạnh
phúc của cô ấy cũng quá ngắn ngủi. Một
tuần sau ngày cưới, tạm biệt vợ và
nhà máy anh ấy ra mặt trận và không bao giờ
về nữa. Cùng cảnh ngộ, chúng tôi hiểu
nỗi đau khổ của nhau và thương nhau
nhiều. Tôi khoác balô lên đường tham gia chiến
dịch lần này giữa những ngày nhà tôi chuẩn
bị ở cữ. Gần 53 tuổi đầu mới
sắp có được hạnh phúc của một
người làm bố, chẳng nói thì anh cũng biết
là tôi sung sướng và hồi hộp đón chờ
kết quả tình yêu của mình đến thế
nào. Tôi có kể cho nhà tôi nghe về Hoa, về mối
tình đầu và về Phan Thiết quê tôi. Nghe
chuyện, nhà tôi khóc. Bữa tôi đi, nhà tôi
không tiễn. Thật tội. Nhà tôi có cái suy nghĩ
duy tâm: Lần trước tiễn chồng ra mặt
trận không về nên lần này không đưa tôi
đến nơi tập trung nữa. Lúc cơ quan
đón, tôi khoác balô ra xe, nhà tôi cứ ngồi
ở trong giường, nước mắt chảy
quanh. Đêm cuối cùng, tôi bàn với nhà tôi
đặt tên cho đứa con đầu lòng. Nhà
tôi suy nghĩ ghê lắm, và cuối cùng thì nói với
tôi: "Anh ạ, nếu sinh con gái em sẽ đặt
tên con là "Thúy Hoa" để luôn nhớ
đến chị ấy". Tôi nghĩ nhiều
đến những sự việc hết sức tỷ
mẩn mà nhà tôi đã lặng lẽ chuẩn bị
hàng tháng nay cho sự ra đời của một cháu
gái...
Thế rồi tôi có mặt ở Huế khi những
chiếc xe tăng đầu tiên của Quân giải
phóng tiến vào thành phố. Và rồi như trong
giấc chiêm bao, buổi chiều sau năm ngày thị
xã Phan Thiết giải phóng, tôi dừng chiếc
Honda đầy bụi đường ngay trước
ngôi nhà thân yêu của mình. Phố nhà tôi vẫn
giữ nguyên cái tên xưa: "Đường Gia
Long", nhưng số nhà thì đã đổi khác.
Nhà tôi trước số 90 nay số 30. Gần 25
năm mới đặt bước trở về.
Tôi đứng lặng người trước ngôi
nhà cũ kỹ dễ chừng mấy chục
năm qua chưa được tu bổ lấy một
lần. Cửa đóng im ỉm. Bên cạnh ống
khóa lớn, là những dòng chữ phấn mới
viết, bụi phấn còn vương trên cánh cửa
đã bong hết sơn:
"Gia đình sơ tán dưới cồn
Thư đến xin bỏ giúp vô nhà"
Hai tiếng "sơ tán" khiến tôi nhớ
lại những năm chiến tranh phá hoại ác
liệt của giặc Mỹ trên miền bắc.
Trên đất nước thân yêu của chúng ta,
chiến tranh đã đụng đến từng
căn nhà, từng ngõ phố.
Anh bạn tôi đột nhiên im lặng - im lặng
rất lâu. Dường như có điều gì khổ
tâm ghê lắm đang day dứt trong anh. Tựa vào
thành tàu, tay chống cằm, anh đăm chiêu nhìn
xuống mặt biển. Tôi cũng nhìn xuống và
im lặng chờ đợi.
- "Chắc anh không thể tưởng tượng
được, ngay trên mảnh đất thân yêu
ấy, tôi đã gặp lại Hoa" - Anh nói
đột ngột, tôi không còn tin ở tai mình nữa.
Nhưng rõ ràng tiếng anh vẫn còn đâu đây,
giống như một viên sỏi đã mất hút
dưới lòng hồ mà mặt nước yên tĩnh
vẫn còn lăn tăn sóng gợn. Tôi nhìn anh: Gương
mặt anh sạm nắng, đanh lại, hằn sâu
những nếp nhăn. Gió biển mạnh và phóng
khoáng thổi tung mái tóc lòa xòa, những sợi
tóc bạc trắng lên dưới nắng.Tôi nhìn
xuống mặt nước chói lòa ánh nắng. Những
con sóng đẫm nắng mải miết xô mãi vào
mạn tàu. Chân vịt khua động mạnh. Bọt
biển sủi trắng như thủy tinh, tan ra làm
nhạt mầu xanh của cả một vạt biển.
Xuôi phía đuôi tàu, như có ai vừa để
vương chiếc khăn voan mầu da trời trên
mặt biển xanh thắm mênh mông. Anh nói, đôi
mắt mầu tro nhìn không chớp về những
dãy núi phía xa, như thể chẳng nói với
riêng tôi. Âm hưởng dạt dào của biển
đang trưa làm giọng nói của anh như có
sóng...
Còn đang loay hoay tìm người hỏi thăm
đường xuống cồn, chỗ gia đình
sơ tán, thì ông anh họ tôi chợt đi ngang
qua. Không phải reo nữa mà anh hét lên rồi chạy
bổ đến ôm lấy tôi. Cánh tay bị cụt
tới khuỷu của anh đập đập trên
lưng tôi còn bàn tay lành lặn thì nắm lấy
vai tôi lắc rất mạnh: "Trời! Chú đã
về. Bà vẫn còn, Hoa vẫn còn, ở tù mới
về đó". Như tiếng sét bất thần
nổ giữa trời quang. Đầu óc tôi quay cuồng.
Trời đất lộn nhào hết cả. Anh kéo
tôi đi gặp má tôi đang lễ ở chùa Tứ
Ban gần đó. Thuở nhỏ tôi cũng hay theo má
tôi đi cầu phước ở chùa này. Ngôi
chùa có tiếng là linh thiêng, cứ ba năm lại
có một ngày hội lớn rước Quan Công
ở bên Phú Hào về. Bữa đó trúng ngày hội.
Anh nắm tay tôi lôi đi như chạy. Tôi bỏ
cả xe, chỉ kịp khoác balô và choàng vội
chiếc máy ảnh ngang vai rồi tất tả theo
anh. Đường phố nắng chang, không một
bóng cây. Người hai bên đường đổ
ra, nối dòng theo tôi, lúc mỗi đông. Nhiều
gương mặt rất quen, song tôi không còn nhận
biết được ai nữa.
- "Chồng cô Hoa đã về!". "Chồng
cô Hoa đã về!". "Chồng cô Hoa đã về"...
- Tiếng bàn tán, lời mọi người báo cho
nhau cứ vang lên bên tai tôi, đuổi theo tôi, lặp
đi lặp lại những đợt sóng. Tôi
không còn nhận biết được tình cảm
của mình lúc ấy như thế nào: Hạnh
phúc hay đau khổ? Niềm vui sướng hay nỗi
đau lòng? Quá nhiều việc cùng một lúc
đến dồn dập.
Má tôi đang xin quẻ trong chùa Tứ Ban để
cầu yên lành cho con cái, cầu cho tôi sống và sớm
trở về. Nghe báo, má tôi lật đật chạy
ra. Người đông nghẹt trước mặt
tôi bỗng dạt cả ra. Tôi chạy tới và kịp
đỡ lấy má. Chiếc gậy của má rơi
xuống sân chùa. Không hiểu sao tiếng gậy rơi
khô khan và cả tiếng lá khô lạo xạo
ở sân chùa, lúc ấy tôi lại nghe rõ đến
thế. Tôi gục đầu vào mái tóc bạc trắng
của má. Chưa bao giờ tôi thấy một mái
tóc bạc đến thế. Mái tóc chứa đựng
không chỉ sự dãi dầu của năm tháng mà
còn là biết bao hy sinh, đắng cay, tủi cực
cả một đời người. Những ngón
tay gầy guộc, nhăn nhúm của má lần tìm
rất lâu trên khuôn mặt đầy bụi
đường của tôi.
- "Lâm đấy hả con? Bấy lâu má cứ
ngỡ con chết mất rồi. Tội nghiệp
con Hoa, nó vẫn chờ đợi con. Tuổi con với
nó xung khắc nhau nên mấy chục năm trời
không sum họp được...".
Má khóc. Tôi khóc. Nhiều người xung quanh
cũng khóc...
***
Thế rồi tôi qua thăm Hoa. Ngay lúc ấy
được tin tôi về, Hoa nhắn chờ tôi
ở bên sông.
- "Hoa!"
Tôi cất tiếng gọi và nở một nụ
cười khó khăn như người có lỗi.
- "Anh đã về!"
Hoa nói giọng nghẹn ngào. Hoa không nhìn tôi mà cứ
cúi gằm xuống, hai tay bíu chặt lấy mép
bàn, cố giữ cho đôi vai gầy yếu bớt
rung. Trên đầu Hoa, một vành khăn tang trắng.
Trận bom ngụy vừa ném xuống ngay sau ngày
Phan Thiết được giải phóng, đã cướp
đi mất má Hoa. Tội nghiệp, bà cụ
đang đón thuyền mua cá dưới bến sông
thì máy bay ập tới... Thế là cả gia đình
chỉ còn lại mình Hoa.
- "Má mất rồi em?" - Tôi hỏi. Hoa
không trả lời và cũng không ngẩng lên nhìn
tôi nữa, mà chỉ lặng lẽ gật đầu.
Hoa bằng xương bằng thịt ngồi đó
mà tôi cứ ngỡ mình còn ở trong mơ. Đúng
là Hoa bị đày ra Côn Đảo và bị chúng
đưa đi thủ tiêu thật nhưng Hoa không
chết. Những ngày lội nước câu tôm và
những ngày theo ông chú đi biển đã cứu
sống Hoa. Đêm đó, chạy vào cách đất
liền gần hai cây số, bọn chúng dừng
tàu lại, xô từng người xuống biển
rồi xả súng theo. Hoa là người cuối cùng
bị chúng xô xuống. Loạt đầu bắn
trượt, Hoa nổi lên, chúng xả luôn loạt
nữa. Bị một viên đạn xuyên qua vai
trái, Hoa ráng sức lặn một hơi dài rồi
trồi lên nấp về phía đuôi tàu. Đêm
đầu tháng, mặt biển tối đen. Dọi
đèn pin soi không thấy Hoa nổi lên, chỉ thấy
máu loang trên mặt nước, bọn chúng yên trí
nổ máy phóng thẳng vào bờ. Hoa cũng ráng sức
nhắm hướng đất liền bơi vào. Một
chiếc thuyền đi bủa lưới sớm
đã cứu sống Hoa...
Không biết có phải có ý không, chiều đó
Hoa mặc bộ đồ bà ba đen gọn ghẽ,
đã bạc mầu hệt như ngày xưa mỗi
buổi đi chợ ngang nhà tôi. Hoa gầy đi
nhiều, gân xanh nổi rõ trên những ngón tay gầy
guộc đang bíu lấy mép bàn. Mái tóc dài và dầy
mượt bây giờ rụng ngắn và đã nhiều
sợi bạc. Chiến tranh và tù ngục đã cướp
đi mất quá nhiều sức lực của mỗi
con người...
"Nghe anh Hai nói em đã bỏ mình ngoài biển.
Nào ngờ em vẫn còn sống và đợi chờ
anh cho đến ngày thắng lợi này..." -
Tôi vừa nói, Hoa đã bật khóc. Những giọt
nước mắt tuôn rơi lã chã, nối dòng chảy
một vệt dài trên mặt bàn. Vẫn chiếc
bàn lim cũ kỹ ngày xưa. Bức ảnh tôi chụp
hồi còn thanh niên, nét mặt trẻ măng, tôi tặng
Hoa ngày thoát ly đi kháng chiến vẫn lồng
trong khung kính, đặt cẩn thận nơi góc
bàn dựa vào tường...
Đến bây giờ tôi vẫn bứt rứt,
khổ tâm không chịu được mỗi khi nhớ
lại gương mặt tái nhợt, thảng thốt
của Hoa khi nghe tôi nói chuyện vợ con của
mình. Thật tội là mãi lúc ấy, Hoa mới biết
tôi đã có gia đình. Giữa lúc câu chuyện
đang hồi khó khăn nhất, thì Loan cô em họ
của Hoa tới. Nghe tin tôi về, nó bươn bả
tới thăm ngay. Hồi nhỏ nó rất quý tôi.
Nó chạy ào vào ôm lấy tôi: "Trời anh Lâm!
Bõ công chị đỏ mắt trông chờ mấy
chục năm ròng. Tội nghiệp lắm anh
ơi, chị về tiếp quản bữa trước,
bữa sau má chết. Ngày còn sống, bà vẫn nhắc
anh thường...".
Hoa lặng lẽ bỏ vào buồng trong, lúc sau
mang ra một đĩa trái cây Thanh Long và hộp mứt
chùm ruột. Trái Thanh Long trùng với tên gọi của
tôi hồi nhỏ. Còn quả chùm ruột thì gần
giống quả mận ngoài bắc, nhưng mọc
thành chùm, làm mứt, ăn chua chua ngọt ngọt,
đỡ mệt lắm. Ngày xưa, cứ mỗi
lần vào thăm nuôi tôi trong tù, Hoa thường
mang theo thứ quà này.
Hoa vừa mở hộp mứt, Loan đã trào nước
mắt: "Mứt chị làm đó, anh ăn cho
đỡ mệt. ở nhà chị thường làm
mứt và mua trái nói mọi người ăn để
nhớ đến anh...". Thật khổ tâm. Tôi
lúng túng không biết nói năng sao, nước mắt
chảy quanh, Hoa lừ mắt, giật mạnh tay làm
hiệu, nhưng Loan đâu có biết, cứ kể
lể và khóc tu tu...***
... Chiều ấy Hoa giữ tôi lại ăn
cơm. 10 giờ đêm tôi mới về. Nghe nói hồi
chiều có anh giải phóng bị bắn dưới
cồn, Hoa lo lắng và có ý giữ tôi lại:
"Chừ khuya quá rồi, anh về không an toàn
đâu. Hay anh nghỉ lại đây, mai đi sớm".
Lúc ấy tôi phân vân ghê lắm: Về thì không an
toàn thật, mà ngủ lại thì nhà chỉ có
mình Hoa. Tôi đứng dậy vặn quả đấm
cửa. Một luồng gió mát mẻ đẫm
hơi nước từ lòng sông Phan Thiết ùa
vào làm lay động mạnh tấm riđô che chiếc
giường đôi - chăn chiếu gọn ghẽ,
gối mùng sẵn sàng đó rồi. Tôi chần chừ,
lưu luyến trong căn phòng ấm cúng ánh điện.
Ngoài kia, đêm tối tràn ngập, đường
phố không bóng người và phía xa bỗng rộ
lên một tràng súng nổ. Tôi thoáng nghĩ đến
chuyện đền bù tình cảm cho Hoa sau mấy
chục năm trời xa cách. Nhưng chỉ một
thoáng thôi, tôi gạt bỏ ngay những suy nghĩ
thấp hèn của mình. Hành động như thế
làm sao có được những tình cảm rộng
lớn trong tâm hồn. Hoa chung thủy chờ đợi
mấy chục năm có phải vì sự đền
bù tầm thường đó đâu. Hình ảnh
nhà tôi bụng mang dạ chửa, nước mắt
chảy quanh, không dám đưa tôi đến
nơi tập trung, lại hiện lên trong tâm trí
tôi. Thấy tôi ngại ở lại, Hoa chạy qua
kêu Loan cùng đưa tôi về. Nhưng qua cầu
Phan Thiết, thấy cảnh hai chị em phải mầy
mò trở về trong đêm, tôi không yên lòng nên cả
ba lại quay về nhà Hoa ngồi tâm sự tới
sáng.
Sáng sau trước khi lên đường ra mặt
trận, tôi theo Hoa ra viếng mộ má. Ngôi mộ
gần bên sông, dưới một bụi bông dong.
Trong lúc Hoa lúi húi đốt nhang, tôi chạy kiếm
mấy bông dong nở muộn còn sót sau trận bom,
cắm lên mộ. Những lớp đất mới
đắp còn đang xả hơi. Tôi lặng người.
Trong cơn tuyệt vọng, bọn ngụy đã
cho máy bay dội bom xuống đây ngay trong ngày thị
xã được giải phóng. Nhiều ngôi nhà
đã đổ. Nhiều người dân quê tôi
đã ngã xuống khi cuộc sống vừa qua cái
ngưỡng cửa bên kia một chân trời mới...
Chúng tôi chia tay nhau tại gốc cây hoa học
trò ở đầu cầu Phan Thiết. Cây phượng
già nua này có từ những ngày tôi còn cắp
sách. Ngày xưa nó đã từng chứng kiến
không biết bao cuộc hẹn hò, giận dỗi
giữa chúng tôi. Những ánh nắng vàng chợt
đến từ lúc nào, thơm tho trên nền trời
thị xã. Đôi chim sâu lích tích chuyền qua chuyền
lại trên những cành phượng còn đẫm
sương đêm. Những cánh hoa đỏ
như sắc cờ chốc chốc lại rơi
xuống đậu trên tóc và trên đôi vai gầy
yếu của Hoa. Thật hệt như xa xưa khi
còn ở những ngày của "Thuở ban đầu"...
Gần một buổi chiều và trọn cả
một đêm bên Hoa, tôi vẫn thấy thời
gian sao ngắn ngủi. Mấy chục năm xa cách,
gặp lại một điều chủ yếu nhất
cũng chưa bàn bạc được cho ra nhẽ
thì đã lại chia tay. Thấy tôi băn khoăn,
lúng túng, Hoa chủ động nói với tôi:
"Anh Lâm ạ, việc mấy chục năm không
sao một lúc mà giải quyết hết được.
Anh cứ yên lòng ra mặt trận. Cầu cho anh
được sức khỏe và bình an. Ngày Sài
Gòn và miền nam hoàn toàn giải phóng, trên
đường ra bắc anh hãy ghé thăm quê. Còn
gì nữa thì ngày ấy Hoa và anh sẽ lại nói
với nhau...". Hoa nhìn tôi. Trong cặp mắt mở
to, trong cái nhìn nồng hậu, bao dung và chan chứa
yêu thương ấy, tôi hiểu rằng Hoa còn muốn
nói rất nhiều...
Thế rồi chia tay. Hoa nhập vào dòng người
đang cuộn dổ về sân vận động
dự lễ ra mắt của ủy ban Nhân dân Cách
mạng thị xã. Mít-tinh phải làm sớm để
phòng ngừa máy bay ném bom. Sau này tôi được
biết Hoa là Chủ tịch ủy ban Nhân dân Cách
mạng của chính khu phố tôi. Tôi đứng lặng
nhìn theo. Mãi khi bóng Hoa mất hút trong dòng người
và biển cờ mênh mông, tôi mới nổ máy chiếc
Honda bám theo những binh đoàn xe tăng tắm
đầy bụi đường đang
giương cờ Mặt trận rầm rập lao
về Sài Gòn...Anh Lâm thôi kể từ lúc nào, lặng
lẽ đốt thuốc. Đêm cũng đã
dâng lên trên bầu trời tấm màn nhung đen khổng
lồ đính đầy sao. Con tàu có trọng tải
gần hai vạn tấn đang đè sóng lao lên,
để lại trên mặt biển những vệt
lân tinh sáng loáng. Theo chiều sóng biển mà con tàu
dập dềnh lên xuống, những ngôi sao long lanh
như những giọt nước mắt, lúc như
bay lên, lúc như tụt xuống. Nhiều tiếng
dế đáp nhau lao xao trong tiếng sóng biển
làm màn đêm trên đại dương càng huyền
bí hơn. Những chú dế này từ đất
liền không biết cách gì đã lên đậu trên
tàu. Chuyến viễn du: Hải Phòng - Sài Gòn và
Sài Gòn - Hải Phòng của các chú còn vĩ đại
và kỳ hiểm hơn cả chú "Dế mèn
phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài...
Thư Hoa đây - Anh Lâm lấy bức thư cất
cẩn thận trong túi áo ngực, đưa tôi -
Sáng qua tôi nhận được không phải một
mà hai lá thư cùng một lúc: Thư của Hoa và
thư của nhà tôi ở Hà Nội gửi vào. Thế
là nhà tôi đã sinh cháu gái như điều thầm
ước. Bữa trước tôi có gửi thư
báo sẽ trở ra bằng tàu biển nên không ghé
được Phan Thiết, và nói rất mong gặp
Hoa ở Sài Gòn. Sáng qua nhận thư, nghe Hoa nói sẽ
thu xếp ra Sài Gòn, tôi mong quá. Tôi cứ nấn
ná chờ Hoa, mãi chiều tối qua, không thấy,
tôi mới ra cảng lên tàu, chỉ trước ít
phút làm thủ tục hải quan. Sáng nay mải
đọc thư Hoa, thư nhà, tàu nhổ neo lúc
nào tôi không hay. Nào ngờ Hoa chạy kiếm tôi
trên bến. Chắc sáng sớm nay Hoa mới vô Sài
Gòn... Chắc anh muốn hỏi tôi định giải
quyết chuyện riêng của mình như thế nào?
Thư Hoa đó, anh đọc đi, chắc rõ...
Nói rồi anh Lâm ngả người trên võng. Gió
biển làm chiếc võng đung đưa...
Phan Thiết, ngày 3 tháng 6 năm 1975
Anh Lâm!
Được thư anh ngày 31-5. Hơn hai
mươi năm giờ đây mới được
đọc lại những dòng chữ của anh,
và em cũng là lần đầu tiên cầm bút viết
thư cho anh. Tất cả những điều
ấy tránh sao khỏi nỗi xúc động, bồi
hồi...
... Anh đã trở về... Ước mơ,
chờ đợi bao năm ấy, ngày hôm nay đã
đến với em bằng sự thật. Còn nói
đến tình cảm yêu thương, em không hề
có ý nghĩ không đẹp về anh. Em luôn nghĩ
đó là do hoàn cảnh tạo ra cho con người
phải như vậy.
... Má đã qua ở với em trong những
ngày tuổi già. Má biểu em viết thư nói anh
đưa chị và cháu về, còn ít vàng dành dụm
má sẽ cho anh để gây dựng cuộc sống.
... Anh yên tâm, đừng nên suy nghĩ nhiều
về em. Mọi việc đã qua không nên gợi sống
lại trong lòng nữa anh ạ. Em nghĩ mình em chịu
mất mát đã quá đủ rồi. Không nên
để cả hai người phụ nữ
cũng chịu đau khổ, mà chị ở ngoài
ấy đã một lần mất mát. Những
điều ấy em đã nghĩ...
Gấp bức thư đưa lại anh Lâm, tôi
thấy lòng mình khang khác. Một mùi thơm tinh khiết
thật sự đang thoảng bay trong những làn
gió nồng nàn hơi biển. Chớp bỗng rạch
chân trời, lóe sáng./.
Trần Mai Hạnh