Vị tướng ấy đã ngoài tuổi bảy mươi, nhưng vóc dáng
còn khỏe mạnh, da đỏ au. Từ Hà Nội vào Nha Trang ông
không đi bằng máy bay theo đoàn, chỉ mất có hơn hai
giờ đồng hồ mà ông lại ngồi tàu xuyên Việt. Thời
gian đi có dài hơn, những hai ngày một đêm. Miền Trung
lại đang mùa mưa bão. Lụt trắng Huế, cầu đường
bị hư hại nhiều chỗ. Cùng đi với vị tướng còn có
một cô bé cũng đã ngoài tuổi đôi mươi xinh đẹp và
nhí nhảnh: "Sao không đi máy bay hả ông?". Ông tướng
cười nhìn cô cháu gái, giọng bình thản: "Biết còn
có dịp nào ông lại được đi trên con đường này,
hả cháu. Tuổi ông già rồi... Như cái bóng...".
"Cháu xin lỗi ông... Cháu cũng thích đi tàu được
nhìn ngắm phong cảnh. Đi máy bay thì chẳng thấy gì
hết". Ông như không nghe thấy lời cô cháu gái, trôi
trong niềm suy tư. "Người già sống bằng kỷ niệm,
cháu ạ. Có đi như thế này, ông mới nhìn thấy những
đỉnh núi Trường Sơn, nhìn thấy dòng sông Bồ, sông Hương,
sông Thu Bồn, sông Trà, Đèo Cả... Tuổi trẻ của ông
gửi lại ở đấy cháu ạ. Ôi, cái thời "Nam
tiến". Ông và đám bạn trai Hà Thành cất vang câu hát
"Ta đi, ta đi mang hồn sông núi..." Và ngâm hoài
câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở nước. Ngàn năm
thương nhớ đất Thăng Long".
Tàu hỏa đến Nha Trang vào một buổi chiều. Tàu
dừng, hai ông cháu hòa vào dòng người đi ra cửa ga. Không
ai đến đón ông cả. Vả chăng, vị tướng cũng muốn
thế. Ông đã cố ý tới trước một ngày theo như giấy
mời của Ban lễ tân "23 tháng Mười". Và ông cũng
đã tự chọn cho cả hai ông cháu một khách sạn rẻ
tiền - đúng hơn là một nhà khách của một cơ quan. Nhưng
từ chỗ ở, ra biển chỉ có hơn trăm bước. Ông cảm
thấy mình có lý khi chọn phương án đi sớm một ngày.
Chiều mai ông sẽ gặp bạn bè từ trong Nam ngoài Bắc đổ
về đây. Lại những cái bắt tay, những lời hỏi thăm
và câu chuyện sẽ cuốn hút ông vào những vại bia quanh
bàn tiệc.
Sau bữa cơm chiều, trời còn sáng, vị tướng dắt cháu
ra biển. Cô cháu gái có dịp trút bỏ bộ quần áo đi tàu
và diện một chiếc váy hoa sáng, đẹp ngời ngợi. Lần
đầu cô gái đến Nha Trang, đứng trên bờ cát chỉ cách
có mươi bước chân đã là những đợt sóng trắng luôn
tung bọt trắng xóa. Chiều biển động, nhưng lại tạo
ra một vẻ đẹp mê hồn. "Nửa thế kỷ trước, đây
là chiến địa đấy cháu. Máu đổ, chết chóc, khói
bụi mịt mù và cả bầu trời râm ran tiếng đạn pháo...
Này cháu, cháu có thấy cái mỏm đồi có mái nhà ngói
đỏ nhô lên kia không?". "Dạ có ạ!".
"Gọi là đồi La San. Lúc ấy, ông ở đấy với hai
khẩu sơn pháo 75 ly. Đứng từ đấy, ông có thể quan sát
tới tận Cầu Đá. Có lúc ông lại leo lên đỉnh Tháp Bà
nhìn qua sông để xác định điểm chuẩn cho pháo
bắn...". "Chiến tranh là bắn giết nhau hở ông?".
"Phải, bắn giết nhau - nhưng là một cuộc chiến đấu
có mục đích. Một bên là những người giữ đất, còn
phía bên kia là những kẻ cướp nước". Mai sớm, ông
sẽ đưa cháu lên chơi Tháp Bà và sẽ đưa cháu xuống
thăm một cái xóm chân cầu". "Có gì lạ lắm không
ông?..." "Không có gì lạ với mọi người, như
ngàn vạn xóm chài khác. Có chăng, chỉ riêng ông...".
- Ông kể cho cháu nghe đi!
Cô gái cầm tay vị tướng và dìu ông ngồi xuống
một chiếc ghế đá lạnh băng.
- ờ thì ông kể. Dù chả mấy người biết chuyện này,
kể cả bố cháu. Bố cháu là một nhà khoa học, chỉ
quen nhìn cuộc sống theo những lo-gic của toán học.
Ngọn núi là ngọn núi. Rừng cây là rừng cây, mà ít
chịu hiểu rằng trong đất còn có cả máu. Trong mỗi thân
cây còn có cả mầm mống luôn động cựa... Cháu ạ,
ở cái xóm chân cầu giữa những ngày lửa máu ngút
trời ấy, ông đã yêu và được yêu.Vào mỗi buổi
tối, khi tiếng súng tạm ngưng, chiến sự im ắng, ông và
vài chiến sĩ xong ca trực lại xuống chân đồi trú
trong những nhà dân. Dạo ấy, ông mới chỉ là anh lính
pháo thủ. Trẻ khỏe, yêu đời, vô tư. Người con gái
ông quen và yêu ngày ấy là con của một chủ tiệm tạp
hóa nhỏ. Cha cô có một con thuyền đi đánh cá, còn bà
mẹ và cô con gái vừa lo việc nội trợ vừa bán hàng.
Vào những ngày chiến tranh bùng nổ, cả xóm chân cầu
trở thành nơi đóng quân của bộ đội, tự vệ. Những
trái đạn pháo từ tàu chiến của Pháp ngoài biển bắn
vào, đạn moóc-chi-ê từ các phòng tuyến của địch ở
trong phố bắn sang đều rơi xuống triền đồi phía tây
hoặc vào bãi cát ven biển. Dân trong xóm Cầu, trai tráng
khỏe mạnh thì đi dân công vác đạn, gánh gạo, tải thương.
Các bà các chị thì nấu cơm, vắt cơm cho bộ đội.
Cháu ạ! - Vị tướng già im lặng trong giây lát nhìn
vào khoảng không gian bao la của biển cả trong ánh hoàng
hôn của buổi chiều tà. Mặt biển đang dần sẫm lại.
Trong lúc ở vùng trời phía tây vẫn le lói lên những ánh
vàng. Ông lại tiếp: Ông đã nhớ không rõ mình được
gặp cô gái bán hàng xén mấy lần. Không có những
cuộc dạo chơi. Không thư từ hò hẹn. Điểm duy nhất
để ông có thể gặp gỡ trò chuyện cùng với cô ta là
ở khoảng sân dưới tán cây trứng gà xanh um, sai trái.
Ông ngồi xay bột. Cô gái ấy ngồi bên vừa đổ nước
vào chiếc cối vừa trò chuyện vui vẻ.
Phải mất 6 năm sau, ông và người con gái ấy mới chính
thức được là vợ chồng... Đám cưới được tổ
chức trong rừng, ở một bản người Ê Đê dưới chân
đèo Ma-đơ-rắc. Không biết ai báo tin cho cô gái. Cô đã
cải trang làm người buôn hàng chuyến và đi tìm ông. Và
ông cũng chỉ sống với "bà ấy" được vừa đúng
ba đêm, rồi chia tay nhau. Dạo ấy, Pháp đang đổ quân lên
càn Tây Nguyên. Đơn vị ông phải đi chiến dịch.
Thêm 5 năm nữa, vào năm 1955, ông mới nhận được
tin tức của vợ con. Người ta dẫn đến cho ông một đứa
trẻ 5 tuổi, gầy yếu. Những dấu sẹo ghẻ lở in đầy
trên hai bàn tay và cặp chân nó. Chỉ nhìn đôi mắt, khuôn
mặt của đứa trẻ ông biết chắc đó là con mình. Đó
cũng là bố của cháu bây giờ, cháu ạ.
- Còn người con gái ông yêu...?
- Là bà nội cháu. Vị tướng nói chậm rãi - Chỉ
tiếc rằng bà nội không còn sống. Những đồng chí cán
bộ ở vùng này tập kết ra Bắc, bảo với ông rằng:
sau lúc sinh con được vài tháng, bà đã mất vì băng
huyết.
- Vậy mà ông sống chừng ấy năm để nuôi bố cháu?
- Cô cháu gái như muốn chia sẻ nỗi vất vả của người
ông.
Vị tướng như không nghe thấy điều thắc mắc của
đứa cháu nội, hoặc giả ông tránh trả lời - Cháu
ạ! Đời người thực ngắn. Nhưng với ông lại là quá
dài... Chỉ từ ngày có cháu, niềm vui mới trở lại
với ông... Cháu mang hình bóng của bà.
Mặt biển đã sẫm lại và vô số những con thuyền
đánh cá ngoài khơi đã tỏa sáng ánh đèn, kéo thành
một dãy dài như một đường phố nổi. Vị tướng hít
từng hơi dài không khí trong lành của biển cả. Ông
cảm thấy sảng khoái và dễ chịu. Ngày mai "hội quân",
ông sẽ gặp lại vô số bạn bè từ thời trai trẻ. Nhưng
tự trong sâu thẳm của lòng mình ông biết rằng dù có
vui bao nhiêu đi chăng nữa, ở ông vẫn len vào một
khoảng trống vắng không có gì bù đắp nổi.
Lấp lánh trên bầu trời là những vì sao
Gió thổi ào ạt trên những chòm lá dừa./.
Đỗ Kim Cuông