Chúng tôi thân nhau. Nết là học sinh giỏi văn và
chỉ thích làm cô giáo dạy văn. Vậy mà cuộc đời
lại chơi trò đánh đố. Chính tôi trở thành cô giáo
dạy văn còn Nết...
Ông Cơ, người có họ xa với tôi ở quê lên thành
phố thăm con học đại học. Ghé qua nhà tôi ông bảo:
"Bà Tính nguy rồi. Không biết bệnh gì mà người
quắt lại, như một nắm xương khô. Từ dạo xảy ra cái
vụ động trời, bà sống thui thủi một mình. Cô Nết
(con gái bà Tính) thì vẫn biệt tăm. Rõ khổ".
Tôi day dứt mãi vì cái tin ấy. Mấy đêm liền tôi mơ
thấy một người đàn bà tiều tuỵ mang gương mặt bà
Tính. Tôi lại mơ thấy Nết, bạn gái của tôi thời
cắp sách. Hai đứa học trường làng, trời mưa, đội
chung chiếc áo tơi bằng lá cọ, đi trên con đường đê
mới đắp, đất sét dẻo quánh và trơn như đổ mỡ.
Nết bảo "chúng mình gài cánh tay vào nhau. Nếu trượt,
cả hai đứa cùng ngã". Tôi và Nết cười vang giữa
cánh đồng lúa xanh đang thì con gái, hớn hở đón cơn mưa
đầu mùa.
Tôi đem chuyện kể với chồng, anh cười bảo:
"Nhắc chuyện xưa là triệu chứng của tuổi già".
Tôi giật mình. Chẳng lẽ mình già thật. Một người đàn
bà ngoài bốn mươi như tôi quả là không còn trẻ nữa.
Nhưng tôi không quan tâm lắm chuyện già hay trẻ. Câu nói
của chồng khiến tôi chợt nhận ra rằng từ lâu tôi đã
quên nhiều thứ, đã quên tất cả.
Cho đến bây giờ tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên về
số phận suôn sẻ của mình. Tốt nghiệp cấp III, với
sức học tàm tạm và cái lý lịch con liệt sĩ tôi bước
thênh thang vào trường Đại học Sư phạm. Ra trường,
không cậy cục xin xỏ, tôi vẫn nghiễm nhiên được
dậy học ở một thành phố lớn. Nhan sắc tôi thuộc
loại trung bình, không có những cơ hội để trải qua
những mối tình bão táp như đám bạn cùng trang lứa, nhưng
bù lại tôi được một người đàn ông giỏi giang và
tử tế yêu thương hết mực. Người ấy là chồng tôi
bây giờ. Anh là kiến trúc sư có tiếng. Trong thời
buổi đô thị hoá với tốc độ chóng mặt, nghề
nghiệp của anh trở nên đắc dụng. Và thế là tôi có
tất cả. Một ngôi nhà khang trang đầy đủ tiện nghi
giữa trung tâm thành phố. Hai đứa con, một gái, một
trai xinh đẹp dễ thương. Với bản chất thực tế, ít
mơ mộng, bay bổng tôi đã ngoan ngoãn khép mình trong
bổn phận và hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống mà mình
có. Từ trong sâu thẳm tâm hồn, tôi tin tưởng mãnh
liệt rằng hạnh phúc của tôi hôm nay chính là lộc, là
phúc của cha tôi để lại.
Cái quá khứ về một vùng quê nghèo khổ đồng chiêm,
nước lụt đã ngủ vùi đâu đó trong ký ức của tôi.
Những cánh đồng nước trắng mênh mông, cây lúa ngoi lên
nhọc nhằn, sũng ướt. Những ngày nghỉ học theo mẹ ra
đồng, tôi bì bõm dưới ruộng nước sâu tới háng.
Những con đỉa no máu, căng tròn bám chặt nhồn nhột nơi
bắp chân. Hai mẹ con tôi sống trong căn nhà nhỏ, mái
dạ, trông ra một khu vườn xinh, xanh ngát lá trầu không
và lủng lẳng những quả bầu, quả bí. Đêm đêm giáo
vặn cành khô răng rắc, khu vườn trăn trở như người
đàn bà mang thai trong cơn nhức mỏi.
Nhà tôi và nhà Nết chung nhau bờ rào râm bụt mỏng,
loe hoe vài bông hoa đỏ chói. Chúng tôi thân nhau vì cùng
là con gái, bằng tuổi nhau, học cùng một lớp và còn
nhiều lý do khác. Nết hiền lành, nhút nhát còn tôi hay
lý sự. Chơi với nó tôi luôn được làm "kẻ
mạnh". Thực ra, có một nguyên nhân sâu xa gắn kết
tôi với Nết mà dạo ấy còn trẻ con tôi không ý thức
được, đó là hoàn cảnh gia đình tôi và gia đình Nết
đều côi cút như nhau. Bố tôi đi bộ đội sau khi cưới
mẹ tôi được một tuần. Từ lúc sinh ra đến giờ toi
chưa một lần được nhìn thấy bố, chỉ hình dung bố
qua câu chuyện của mẹ. Nhưng mẹ cũng ít khi nhắc đến
bố. Mẹ bảo, mẹ chỉ được sống bên bố có một
tuần nên không có nhiều chuyện để kể, nhưng những
kỷ niệm về bố đủ để cho mẹ sống thanh thản đến
suốt đời. Bố Nết không đi bộ đội như bố tôi, nhưng
chẳng bao giờ tôi nhìn thấy người đàn ông nào gọi là
bố Nết xuất hiện ở cái làng này. Nết cũng không bao
giờ nói đến bố cả. Mẹ Nết là người đàn bà
lặng lẽ và nhẫn nhục. Tôi cảm thấy chuyện gia đình
Nết có cái gì đó "bí ẩn" lắm. Tôi tò mò
hỏi mẹ. Mẹ bảo "Bác ấy đi làm ăn xa". Không
thoả mãn với cách giải thích của mẹ, nhưng vì là
trẻ con nên tôi không thắc mắc chuyện người lớn
nữa.
Tôi với Nết thân nhau, thậm chí "mê" nhau. Ngày
nào không thấy nhau, không nói với nhau cái gì đấy là
không chịu được. Chiếc bánh đa, bao diêm, quyển sách,
cái kẹp tóc... được hai đứa trao đổi qua hàng rào râm
bụt.
Mùa đông ở Bắc bộ lạnh lắm. Cái lạnh nhức
buốt xương tuỷ đến ám ảnh. Buổi tối học bài xong,
tôi và Nết cuộn mình trong ổ rơm như hai củ khoai lang
vùi vào tro trấu. Những cọng rơm vàng ram ráp và thơm
ngai ngái. Nết khịt khịt mũi: "Đố Hằng, rơm có mùi
gì?". "Mùi rơm chứ mùi gì". "Không
phải. Mùi sữa mẹ". "Điêu". "Ngửi
thử xem". Tôi vo một nắm rơm đưa lên mũi hít lấy
hít để. "ừ nhỉ, hèn nào trong sách viết "Lúa
đang thời kỳ ngậm sữa". Tôi rất ít khi chịu lép,
nhưng những câu hỏi đánh đố kiểu như vậy thì tôi
thua. Một lần đang đi trên bờ đê, trời nắng dịu,
những làn mây trắng lửng lơ trên đầu. Nết lại đố
tôi: "Mây giống cái gì". Tôi bảo "mây
giống mây". Nó cười "mây giống chiếc áo của
bầu trời. Nhìn kìa, ông trời đang cởi áo". ở
lớp Nết là học sinh giỏi văn. Những bài tập làm văn
của Nết thường được thầy giáo khen và xem là bài văn
mẫu, đọc cho cả lớp cùng nghe. Vào năm cuối cấp II
Nết được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi văn
chuẩn bị đi thi ở huyện và toàn miền Bắc. Nết còn
có biệt tài là thuộc rất nhiều thơ, và đôi khi nổi
hứng Nết cũng sáng tác thơ. Theo cảm nhận của tôi lúc
bấy giờ thì thơ Nết rất du dương, và tôi tin chắc
sau này Nết sẽ trở thành thi sĩ. Nết bảo "tớ
chỉ thích làm cô giáo dạy văn, còn thi sĩ, chả dám mơ".
Vậy mà cuộc đời lại chơi trò đánh đố. Chính tôi
trở thành cô giáo dạy văn còn Nết không biết trôi
dạt về đâu sau một "cú sốc" quá sức chịu
đựng của một cô bé mười bốn tuổi vốn nhạy cảm
và giàu tự trọng. Chuyện này tôi kể sau. Còn bây giờ
tôi muốn nhắc lại những kỷ niệm của tôi.Năm tôi
học lớp 7, mẹ tôi nhận giấy báo tử bố tôi. Theo ngày
tháng ghi trong giấy thì bố tôi đã hy sinh từ năm tôi
học lớp 3 nhưng mãi bốn năm sau mẹ con tôi mới chính
thức nhận được cái tin đau đớn ấy. Mẹ không khóc
được nữa. Vì đã linh cảm điều bất hạnh này từ lâu
nên bà tỉnh táo lạ kỳ. Mẹ ôm tôi dỗ dành "Con
ơi, giờ chỉ còn hai mẹ con mình thôi, con phải vâng
lời mẹ, chăm học để nên người". Đối với tôi
lúc ấy, lời mẹ nói đơn sơ mà rất thiêng liêng. Nhà
trường tổ chức lễ truy điệu các liệt sĩ vào giờ
chào cờ đầu tuần. Thầy hiệu trưởng đọc diễn văn
ca ngợi gương chiến đấu dũng cảm của các anh hùng
liệt sĩ. Thầy nhắc đến bố tôi, giọng nghẹn ngào.
Cả sân trường bỗng oà lên tiếng nức nở. Tôi khuỵu
xuống. Nết dìu tôi, an ủi "đừng khóc nữa Hằng
ơi", nhưng rồi chính Nết cũng nấc lên. Tôi nhận
được sự chia sẻ từ phía thầy cô và bạn bè. Cái
Thoa thường ngày rất ghét tôi vì có lần tôi cãi nhau
với nó. Hôm nay nó chạy lại nắm tay tôi, đôi mắt
ngầng ngậng nước. Tôi mủi lòng và cảm thấy ân hận
vì cái lần cãi nhau vớ vẩn ấy. Con gái 14 dễ giận
hờn mà cũng dễ tha thứ cho nhau.
Từ ngày bố tôi hy sinh Nết càng tỏ ra thân thiết
với tôi hơn, ngoài giờ học Nết kiểm chuyện gì đó
để hai đứa cùng làm, hoặc rủ tôi đi chơi, để tôi
nguôi ngoai nỗi đau mất cha. Những đêm trăng sáng, hai
đứa chơi chốn tìm cùng với bọn trẻ trong làng ngoài
sân kho hợp tác rồi lăn kềnh dưới đụm rơm ngủ ngon
lành đến tận nửa đêm, sương lạnh mới giật mình
tỉnh giấc chạy thục mạng về nhà. Mẹ tôi mắng
"con gái không được ngủ lang". Từ đấy tôi
chừa. Những ngày nghỉ hè tôi và Nết đi móc cua, đi
cất vó tép. Những con cua đồng đào hang rất sâu để
trốn nắng, hai đứa phải thọc cánh tay đến tận nách
mới móc được chú cua màu nâu tươi rói, với đôi càng
ngoan cố. Nết bảo: "Hễ có đất đùn ở ngoài hang
là chắc chắn có cua". Chán bắt cua lại đi kéo vó
tép. Chúng tôi thả những chiếc vó xinh xinh xuống mương
rồi ngồi chơi đánh chắt. Hai đứa cười thích chí khi
nhìn những chú tép nhảy tanh tách trong vó và có khi tiu
nghỉu vì chẳng có con nào. Mớ tép được đem về kho
với khế hái ở vườn nhà Nết, mà theo Nết nói thì
bố nó chẳng để lại kỷ niệm gì cho mẹ con nó ngoài
cây khế chua. Một hôm đang vui, bỗng Nết nhìn tôi
chằm chằm, nước mắt chực chào ra. Tôi hỏi vì sao,
Nết bảo "Ước gì bố tớ cũng được như bố
cậu" rồi chẳng nói gì nữa. Tôi gặng hỏi, Nết cũng
chỉ im lặng. Đôi môi đầy đặn, với đường nét
gọn gẽ như kẻ chì của nó mím lại trông vừa hờn
giận vừa trang nghiêm. Tôi cảm thấy trong Nết có một
điều gì tổn thương ghê gớm lắm, nhưng chẳng biết làm
gì để an ủi bạn. Bởi đối với tôi, chuyện về bố
Nết vẫn là chuyện bí mật của người lớn. Nhưng
rồi càng lớn lên tôi càng hiểu rằng ở cái làng quê
nhỏ bé nghèo nàn, ao tù, nước đọng này chẳng có
chuyện gì bí mật cả.
Một đêm cuối tháng, trời chớm đông, se lạnh, tôi
và Nết đang say ngủ trong ổ rơm nhà tôi thì nghe lao xao
ngoài cổng. Có tiếng chửi đổng "Rõ thối thây",
"Đồ đàn bà mất nết". Họ chửi ai thế nhỉ?
Tôi lay gọi Nết. Hoá ra Nết cũng đã tỉnh ngủ và đang
nghe ngóng. Hai đứa bật dậy, mở liếp cửa. Trăng suông.
ánh trăng bàng bạc, lạnh lẽo, vài bóng người thấp
thoáng phía bờ rào nhà Nết. Tôi giật mình khi nhìn
thấy bà Tính trong bộ dạng tả tơi, tóc xổ ra, đang đi
như chạy vào nhà. Có vẻ như bà vừa trải qua một điều
gì khủng khiếp. Nết kêu lên "Mẹ làm sao
thế". Không có tiếng trả lời. Trong ánh sáng nhờ
nhờ tôi thấy bà Tính đang cắn chặt vành môi để
khỏi oà khóc. Rồi hai mẹ con Nết vào nhà.Tôi hỏi
"Bác Cả có chuyện gì vậy?". Ông Cả Đẹn
mắng: "Mày trẻ ranh biết gì". Bị coi thường tôi
ức lắm, nhưng không cãi được, vì tôi đúng là trẻ
con. Bỗng bà Lý the thé: "Mày muốn biết thì đi
hỏi thằng Thông chột đấy".
Tôi ngớ người. Sao lại hỏi ông Thông? Ông Thông
bị hỏng một mắt nên người làng gọi ông là Thông
chột. Nghe nói hồi nhỏ đi chăn trâu, bạn ông dùng súng
cao su bắn chim, chẳng may trúng vào mắt ông. Giờ ông đã
ngoài năm mươi, sống cô độc bằng nghề chăn vịt.
Lát sau, mọi người lục tục kéo nhau về hết. Tôi
trở lại ổ rơm của mình. Thiếu Nết tôi cảm thấy
trống chếnh vô cùng. Lần đầu tiên tôi mất ngủ vì
nghĩ ngợi và buồn. Tôi cố căng óc để tìm một cách
giải thích cho cảnh tượng vừa diễn ra nhưng vô hiệu.
Làng quê vẫn đắm chìm trong ánh trăng xuông lạnh lẽo
và tiếng nhạc dế ri ri buồn bã.
Những ngày sau đó cái xóm nhỏ vốn lặng lẽ của tôi
đã xôn xao đồn đại rằng bà Tính ngủ với ông Thông
chột trong lều chăn vịt, bị bắt quả tang. Rồi nhiều
chuyện khác nữa được thêu dệt, màu mè. Thiên hạ tha
hồ mà nói, mà cười, mà bình luận. Mẹ tôi bảo:
"Bác Tính không phải là người xấu. Đàn bà cay đắng
trăm bề con ạ".
Dông tố đã ập xuống ngôi nhà nhỏ của mẹ con
Nết. Sáng hôm ấy, tôi gọi Nết đi học. Nết không
mở cửa cũng chẳng trả lời. Tôi một mình đến trường
trên con đê làng, cảm giác như vừa đánh mất cái gì
lớn lắm nhưng không rõ hình thù. Bọn lớp tôi túm
tụm xầm xì chuyện gia đình Nết. Tôi muốn nói với chúng
lời thanh minh, bênh vực cho bà Tính, nhưng không đủ
sức. Không ngờ, đó là bước ngoặt của đời Nết.
Năm ấy là năm cuối cấp II. Chúng tôi chuẩn bị thi
tốt nghiệp. Nết bỏ học, bỏ làng đi biệt. Tôi bần
thần mãi vì giận và thương Nết. Giận vì tôi chơi thân
với Nết như hình với bóng mà khi quyết định một
việc trọng đại như thế Nết chẳng nói với tôi một
lời. Thương vì Nết mảnh khảnh, yếu đuối thế kia,
rồi sẽ ra sao? Ngày thường tôi và Nết chỉ ra khỏi làng,
đi qua cây đa to, rễ chùm xuống thành vòm như cái cổng
và cái lò gạch leo teo khói là đã sợ ma.
Bà Tính sống âm thầm như cái bóng, không ai lui tới
nhà bà kể cả ngày giỗ tết. Mỗi lần họp xã viên, bà
nhẫn nhục chịu đựng những cái nhìn khinh bỉ, những
lời xúc xiểm cay độc. Ông đội trưởng sản xuất đã
lên lớp bà Tính, rằng bà đã nêu một gương rất
xấu, làm ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm của
chị em có chồng đang chiến đấu ngoài mặt trận,
rằng các chị đều biết hy sinh hạnh phúc cá nhân chung
thuỷ chờ chồng, riêng bà Tính có chồng sờ sờ ra đó
mà còn đú đởn...
Thật là oan uổng cho bà Tính. Mang tiếng là có chồng
nhưng bà Tính sống cô đơn từ khi sinh đứa con gái đầu
lòng là Nết. Nghe nói chồng bà là người có học, một
cán bộ có chức, có quyền đã bỏ người vợ quê mùa
lấy một người đàn bà thành phố sinh con, đẻ cái và
hẳn là ông rất hạnh phúc. Đã mười mấy năm ông không
hề về thăm người đàn bà khốn khổ và đứa con gái
tội nghiệp.
Mẹ tôi vẫn chạy qua chạy lại với bà Tính. Mẹ thường
sai tôi mang bát canh cá hay quả bầu cắt ở vườn nhà
sang cho bà. Mẹ bảo "không ai nắm tay được cả ngày".
Tôi tốt nghiệp cấp II, mẹ tôi quyết định cho tôi
lên huyện học cấp III. Trường cách nhà 20 cây số tôi
phải ở trọ. Hôm nhập trường tôi sang chào bà Tính. Bà
ôm tôi khóc rưng rức như đứa trẻ. Bà vuốt tóc tôi và
nói trong nước mắt: "Hằng ơi bác có lỗi với con
Nết, bác làm hại đời nó rồi". Lúc ấy tôi thật
lúng túng chẳng biết làm gì để an ủi bà. Tôi nhớ hình
như tôi có nói câu gì đó, đại loại là tôi tin Nết
sẽ trở về với bà.
Ba mươi năm trôi qua, tôi vẫn dành thời gian về thăm
quê, tuy có thưa dần, nhất là từ ngày mẹ tôi mất, còn
Nết thì không. Nết ở đâu? Nết làm gì? Nết sống ra
sao? Những câu hỏi một thời khiến tôi day dứt đã
bặt câm từ bao giờ. Cuộc sống hạnh phúc và tiện
nghi nơi thành phố lớn đã khuất lấp trong tôi những
kỷ niệm về một miền quê và người bạn gái thuở niên
thiếu.
Cái tin ông Cơ báo cho tôi về bà Tính đã khiến tâm
trí tôi xáo trộn. Tôi định bụng sẽ đăng báo tìm
Nết và chuẩn bị một chuyến thăm quê. Lần này tôi
sẽ ở lại quê lâu lâu một chút. Tôi sẽ thay Nết, chăm
sóc, chạy chữa cho bà Tính. Tôi sẽ trở lại những nơi
ghi dấu tuổi thơ tôi: Ngôi nhà tranh in bóng mẹ tôi, hàng
rào râm bụt loe hoe những cánh hoa đỏ chói, con đê làng
quen thuộc từng bước chân tôi và Nết đến trường...
Không hiểu sao tôi nóng lòng và háo hức về quê, hệt
như cảm giác lần đầu tôi đến nơi hò hẹn người yêu.
Tôi nói với chồng: "Em không thể chờ đợi được
nữa. Chủ nhật này em sẽ về quê". Anh nhắc:
"Em bảo chủ nhật này chị Liên đưa một người giúp
việc đến giới thiệu với em mà?".
Tôi sực nhớ là có nhờ chị Liên, dạy cùng trường
với tôi tìm giúp một người giúp việc, vì dạo này tôi
hay mỏi mệt, mà việc nhà tôi làm không xuể. Chị Liên
báo đã tìm ra một chị Ô Sin ngoài bốn mươi tuổi,
khoẻ mạnh, siêng năng và thật thà. Tôi đành hoãn
chuyến về quê.
Sáng chủ nhật, chuông reo, con gái tôi ra mở cổng.
Chị Liên bước vào, theo sau là một người phụ nữ
mảnh khảnh. Người phụ nữ ngồi ở Salon, đối diện
với tôi. Vì mải pha trà, rót nước, gọt trái cây, nên
tôi chưa nhìn kỹ chị. Bỗng dưng, tôi thấy chị có
cử chỉ là lạ. Chị cúi gằm xuống mặt bàn, không
ngẩng lên nhìn tôi, nước da chị tái nhợt. Giây phút
ngỡ ngàng qua nhanh, tôi đã nhận ra gương mặt thân quen
với đôi môi đầy đặn, đường nét gọn ghẽ như kẻ
chì, một gương mặt buồn và cương nghị. Tôi gần như
thét lên: "Nết, Nết hả?" Người phụ nữ
chớp chớp đôi mắt nhìn tôi, khẽ gọi:
"Hằng!"./.
Lê Khánh Mai