Những vồng mây lãng du vắt ngang qua bầu trời cuối
xuân cao tít, như trêu tức những người nông dân. Đồng
lúa đang độ trổ đòng, thế mà đất nẻ chân chim khát
cháy lá, ngắc ngoải chờ những giọt mưa đầu mùa. Nhưng
mây vẫn một hành trình lang thang, nhởn nhơ rồi mất hút
về phía trời tây. Vườn cây trái của Liễu đang rủ lá
héo xàu. Một mình đứa cháu không tưới nổi. Giếng nước
sầu bi sắp sửa tắc mạch. Nếu những đám mây kia không
dừng lại, không đen lên để gieo nước xuống mảnh vườn
cô quạnh này, coi như mùa trái cây năm nay phủi sạch.
Ngẫm đời mình chẳng khác mảnh vườn khô hạn. Có
khi còn rách nát, thảm hơn, giống những tàu lá chuối
sau cơn giông bão, đánh đập te tua. Nhiều khi, Liễu
chẳng muốn tiếp xúc với ai. Mái tóc ấy vẫn óng mượt,
tôn thêm vẻ thanh tao của khuôn mặt, nhưng đôi mắt bao
giờ cũng tràn ngập hoàng hôn, lắm lúc thẫn thờ, thoáng
buồn xa xăm, cứ lặng lẽ u trầm như bóng hình tu sĩ.
Dẫu có nhiều người đến tặng quà, hỏi thăm, rồi
phỏng vấn, viết bài đăng báo, đọc trên đài phát
thanh ca ngợi Liễu, nhưng Liễu thấy lòng se sắt! Nhiều
đêm Liễu khóc, nước mắt lọt vào vành tai nóng hổi.
Kỷ niệm thời qua cứ chập chờn ẩn hiện.
Một vùng quê tuy xa xôi nhưng với bao sôi nổi, tự hào
đáng nhớ của tuổi thơ. Cả vùng Tà Dinh người ta
truyền miệng câu "Cha mẹ cú đẻ con tiên"
nhằm chỉ cha mẹ Liễu. Mẹ dáng người thô, cha mặt
rỗ, chân đi chữ bát, nhưng sinh con xinh đẹp. Quả
Liễu đẹp thật, đẹp đến sững sờ thiên hạ! Những
năm về thị xã học, có khối chàng theo. Chiếc áo dài
ngắn cũn cỡn chấm gối, trở nên nhẹ nhõm, dịu dàng
qua làn da mịn mát. Nó trở nên khỏe khoắn và hấp
dẫn bởi vóc người thon thả. Không chỉ những bạn
học theo đuổi, các "giáo sư" trung học đệ
nhị cấp chưa vợ cũng lặng lẽ dè chừng nhau, có cơ
hội bên Liễu là gieo những lời cất cánh, chập chờn
úp mở đến xao xuyến lòng. ấy thế mà bạn bè, thầy
cô lại được tin Liễu bỗng dưng bỏ học, mất tích
đột ngột. Mãi về sau mới rõ.
Đại úy cảnh sát chi khu trưởng phải lòng, theo đuổi,
tỏ tình. Chính vì bám sát, theo đuổi để thổ lộ tình
cảm ấy, nên y đã phát hiện những gì ẩn nấp bên
trong chiếc cặp da... những bí mật lạnh người. Y đã
nói rõ điều đó trong lần đón Liễu vào một chiều
thứ bảy, khi Liễu đạp xe về nhà. Và sắc đẹp, dẫu
không có uy thế về vũ lực, nhưng có sức mạnh chao đảo
con tim, chuyển bại thành thắng, nên Liễu đã thoát
khỏi bàn tay "công vụ" của đại úy cảnh sát
chi khu trưởng, âm thầm bỏ học, đến với núi rừng,
trong những năm khói lửa chiến trường dữ dội.
Liễu được giao nhiệm vụ theo dõi khối thanh niên trường
học, nhằm vận động tổ chức những cuộc biểu tình.
Con người ấy ở đâu cũng có sức hút kỳ lạ. Những
chàng trai, từ du kích đến cán bộ, có dịp qua huyện,
đều ghé thăm Thúy Liễu, để được mấy phút ngắn
ngủi chiêm ngưỡng cái điều kỳ diệu mà tạo hóa đã
ban cho. Biết bao trai trẻ khi chia tay không khỏi xao lòng,
vương vấn!... Rồi Liễu được rút về tỉnh. Bốn tháng
sau được cử đi học lớp võ thuật, chuẩn bị vào thành
hoạt động.
Liễu vào thành hơn hai năm thì bị bắt: Lúc đầu,
gặp lại người bạn học trước hai lớp, từng một
thời theo đuổi Liễu, đang là sĩ quan bên ban thẩm
vấn. Liễu cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng sau khi người
ấy bị ám sát, tình thế không còn thuận lợi. Liễu
bị tra khảo liên tục. Rồi đến cái đêm không bao
giờ có thể quên được, mỗi lần nhớ lại: Liễu
chợt rùng mình. Nửa đêm Liễu bị dựng dậy, đưa qua
bên thẩm vấn. Lại những lời hỏi cung. Nhưng đêm nay
cái giọng hỏi cung nghe ngọt ngào, dễ chịu. Lại có
những tiếng cười đáng sợ. Cái hàng lông mép vâu ra,
giới thiệu hai hàm răng trắng nhởn. Đôi ve áo rung lên
bần bật theo tiếng cười. Và hai bàn tay sàm sỡ ấy như
con rắn hổ phù vồ lên người Liễu, áp cô vào tường.
Mồ hôi vã ra lạnh ngắt...
- Ông làm cái gì thế?
Vẫn tiếng cười khùng khục rung lên khi hai hàm răng
trắng hớn khoe ra:
- Thật sự tôi rất mến cô, tôi không muốn đời cô
phải chôn xác nơi nhà tù. Nếu cô thuận lòng, tôi sẽ
bảo lãnh cho.
Hắn áp vào và ôm cô, hai bàn tay mò tìm... Liễu
phản ứng quyết liệt, vùng ra khỏi vòng tay hắn. Từ
ngày học võ thuật, bây giờ đôi chân mới bắt đầu
sử dụng, nhằm vào đống thịt kia vung mạnh:
"Bộp", "hự". Hắn lảo đảo, rồi đứng
trợn mắt nhìn:
- Đ. mẹ mày, sống không muốn, muốn chết.
Hôm sau hắn cho người đưa Liễu lên phòng tra tấn.
Đợt tra tấn lần này thật rùng rợn. Chúng xích hai tay
cô và treo lên xà nhà, thoát y cô, rồi dùng những thân
gỗ vuông nhằm vào đôi chân mà đánh. Đôi chân tê
buốt, nặng như đeo chì, không sao cử động được
nữa. Chúng tháo dây xích, người cô mềm nhũn, ngã sóng
xoài xuống sàn nhà. Cảm giác tê dại lan lên vùng
bụng, vùng ngực, muốn ngợp thở. Toàn thân bải hoải,
đầu choáng váng, rồi mê man.
Thời gian trôi qua thế nào không rõ. Khi tỉnh dậy,
Liễu thấy đang nằm trong bệnh viện. Hai chân sưng tấy
lên, nhức buốt tận đỉnh đầu. Liễu biết có người
của nhà giam đang ngồi giường bên cạnh. Y tá vào chích
thuốc, lặng lẽ. Sau này cô mới rõ, bệnh viện được
chỉ thị không được chữa trị tận tình, chỉ chích
đôi liều thuốc để cầm sức. Nghĩa là mặc cho thương
tích phát triển. Đến ngày thứ bảy, hai chân cô thâm
đen, đôi chỗ chảy nước, nhức nhối không chịu được.
Một ông bác sĩ cho cô biết:
- Chân cô đã bị hoại tử, nếu không tháo khớp sẽ
ảnh hưởng đến tính mạng.
Một luồng khí lạnh từ sống lưng chạy xộc lên óc.
Liễu nhắm nghiền hai mắt. Mồ hôi vã ra.
Người ta đưa chị đi tháo khớp ngang đầu gối cả
hai chân. Sáu ngày sau, họ tiếp tục cưa một đoạn
nữa ở chân trái đến giữa bắp vế, vì bị nhiễm trùng.
Từ năm 1978, có ai đó đi ngang qua vùng Tà Dinh xa xôi
này, nhìn vào căn nhà mới xây bên quận lộ, thấy một
cô gái thường loay hoay vất vả với chiếc xe lăn trong
vườn. Qua chiến tranh, cha mẹ, anh chị em chết hết, còn
lại một mình, tàn tật, vò võ. Người ta xây cho Liễu
ngôi nhà nhỏ, thật dễ chịu. Chị đưa đứa cháu gái
gọi bằng cô về ở chung để chăm sóc vườn tược. Các
phóng viên đài, báo vẫn lui tới để viết bài về
chị. Chị chẳng mong điều đó. Chỉ có một người
chị mong ngóng, hơn ba năm nay rồi từ sau giải phóng,
vẫn chưa được gặp. Chị biết anh ấy đi học nước
ngoài đã về hơn bốn tháng nay, đang giữ chức vụ
lớn trên tỉnh. Nhưng rồi chị cảm thấy chán nản, không
muốn người ấy đến. Đến để làm gì? Thật là một
sự trông mong khờ khạo, ngu ngốc, chẳng còn gì nữa!
Liễu xem mình trong gương, khuôn mặt trở nên hồng hào.
Chị biết đó là khuôn mặt đẹp. Đôi mắt u buồn,
một thoáng buồn hoàng hôn mênh mông ráng đỏ. Hai bầu
vú trở nên căng tròn, chắc lại. Nhìn xuống đôi chân
cụt, chị tê tái, hốt hoảng. Chị gục xuống thành giường
và khóc. Khóc vì khiếp sợ khi nghĩ đến tình yêu.
Vào một buổi trưa, Liễu tựa lưng vào gốc sầu đông.
Có nơi gọi cây sầu đâu, nơi thì gọi sầu đông. Vì mùa
đông cành trơ trụi lá, u sầu. Nhưng nay giữa mùa xuân,
hoa nở tím thế kia, rỡ ràng, sao vẫn còn mang tiếng
sầu đông? Có lẽ nên gọi cây xoan thì hay hơn... Liễu
ngước nhìn bầu trời, những võng mây lãng du dừng chân
mơ màng... Những tháng ngày trong rừng, vào mùa có
những võng mây như thế, em đã gặp anh. Lúc ấy, anh là
sinh viên văn khoa, từ thành phố lên rừng hơn một năm,
vừa lúc em từ huyện chuyển về tỉnh. Tất cả bắt đầu
từ đó, từ cái mùa xuân có những võng mây vắt ngang
nền trời. Em gọi mây nhã bừa. Còn anh, gọi đó là mây
lãng du.
Liễu sắp sửa vào thành, Thuật chỉ biết Liễu có
lệnh đi xa, không rõ đi đâu, cũng không dám hỏi. Đêm
chia tay, hai người ngồi trên mỏm đá bên bờ La Ngà
chảy xiết. ánh trăng mười tám mơ màng đắp lên rừng
cây sương phủ. Trăng lên cao. Dòng La Ngà lấp lánh ánh
bạc. Một thân củi to chao đảo lềnh bềnh trôi lên
mặt nước. Đêm xuống lạnh. Thuật áp má vào tóc chị
thì thầm:
- Biết khi nào gặp lại?
- Em trả lời sao được? Chiến tranh mà!
Rồi họ dịu dàng ôm nhau. Nước sông vẫn chảy. Vách
đá lặng thầm. Rừng cây vẫn thế, hoang dã muôn đời.
Thỉnh thoảng có tiếng nai lạc đâu đó dưới chân
triền núi. Xa xa có tiếng bom rền. Lần đầu tiên trong
đời, Liễu mới biết thế nào là nụ hôn, dịu ngọt,
nồng nàn, dữ dội. Anh nói: "Biết ngày mai thế nào?".
"Chiến tranh rồi sẽ chấm dứt, em sẽ chờ. Thế còn
anh?". "Vâng, anh chờ... Chỉ khi nào về với đất.
Mà không, dẫu về với đất, anh vẫn chờ".
Hai giọt nước mắt lăn tròn trên má. Liễu nhìn
những cánh hoa sầu đông rung rinh khi có những con ong đắp
vào. Đôi cánh hoa rơi nhẹ lên thảm cỏ, có cánh hoa rơi
tõm vào bụi gai bên cạnh. Liễu nhìn chiếc xe con mầu
trắng từ xa chạy đến, rồi chậm lại và dừng hẳn
trước cổng vườn. Đôi tay Liễu bỗng run lên. Họ đã
ra khỏi xe. Người tài xế mở "cốp" vác ra
chiếc xe lăn sườn i-nốc. Cái gì đến, nó sẽ đến. Bây
giờ chị khóc thật sự. Anh ấy đến. Người tài xế
đặt chiếc xe lăn tựa vào tường, rồi lảng ra vườn,
vẫn nghe tiếng Thuật dỗ dành, động viên. Họ chuyện
trò, nhưng không nhắc đến chuyện quá khứ, cũng không
hứa hẹn gì đến tương lai. Thuật đến và đi, điềm
đạm và nghĩa vụ.
Thời gian lạnh lùng. Liễu không muốn tiếp xúc với
những người đến phỏng vấn, sợ người ta nói đến
mình. Nhưng Liễu không còn ngồi yên mà khóc, mà tự dày
vò. Chị vui với khu vườn. Một vườn rau quả sum suê,
mát mắt. Ngày nào đứa cháu cũng chở hàng xuống chợ
để bán. ý chí là vậy. Còn tâm trạng, những lúc soi gương,
tưởng chừng như tiếng thủy tinh vỡ vụn, đang nghiền
nát, cứ xoáy vào ngực, cứ váng vào đầu. Ngày qua ngày,
chị thui thủi cầm hai chiếc ghế con, chống tay lết ra
vườn nhổ cỏ. Nhìn chị như nàng cóc khổng lồ ẩn
hiện dưới những tàn lá. Mấy hôm nay trời mưa, chị
không ra vườn. Nghe đài báo, do ảnh hưởng bão, nên đêm
nay có gió cấp sáu, cấp bảy. Bên ngoài, mưa mỗi lúc càng
thêm nặng hạt. Chị khép cửa, chống tay lên hai chiếc
đòn, lê mình xuống bếp nấu cơm. Ban sáng, đứa cháu
về bên nhà, ngày mai mới đến. Càng về chiều, sức gió
càng mạnh. Chị đang lo, lẽ ra không nên để đứa cháu
về bên ấy trong lúc mưa bão thế này. Lết xuống bếp,
bắt gặp chiếc xe lăn Thuật tặng xếp dựng bên tường,
chị lại nhớ tới con người ấy. Gần hai năm rồi anh
không đến. Nhưng có một lần cho người đem quà đến
tặng, chị không nhận. Còn chị, vừa cảm thấy khổ đau,
như oán hờn điều gì đó, vừa tủi thân, nước mắt
không chảy, nhưng tưởng như có những vòng thép gai han
rỉ lăn tròn lên số phận. Bỗng có tiếng gõ cửa,
rồi tiếng gọi:
- Có cô Liễu ở nhà không?
Từ dưới bếp, chị nói vọng lên:
- Có. Em đây.
Cửa vừa hé, một người đàn ông mang áo mưa lách vào.
Anh tháo mũ... Gió tạt vào. Anh với tay khép cửa. Chị
ngờ ngợ... hay là... Thôi đúng rồi! Chị ngồi bất động
trên chiếc ghế con.
Trọng! Người hoạt động cùng tuyến nội thành với
Liễu. Họ thường gặp nhau ở điểm hẹn, để trao tin
và tài liệu. Lúc ấy, Liễu thường lẫn vào đám nữ
sinh với chiếc áo dài trắng. Liễu dịu dàng và lộng
lẫy. Anh đã yêu. Những lúc ngồi bên nhau, anh đã biểu
lộ gần xa tình cảm của mình. Liễu biết điều đó.
Đến khi Trọng thật sự ngỏ lời. Liễu mới nói rõ mình
đã có người yêu, đã hứa hẹn rồi. Biết vậy anh
vẫn yêu. Yêu rạo rực, chân thành. Bỗng Liễu bị
bắt. Anh được chỉ thị đổi tuyến hoạt động và
rời thành phố. Bặt tin nhau từ đó. Sau năm bảy lăm,
anh xin về làm cho một tờ báo ở Trung ương. Thế mà sáu
năm rồi, bây giờ gặp lại...
- Sao anh biết em mà tìm đến?
- Ghé tỉnh này lấy tin, tình cờ đọc được mấy
tờ báo cũ. Ai hay quê em ở đây.
Trọng sục vào bếp, làm gà, nấu nướng với Liễu.
Anh sôi nổi, rộn ràng. Anh lấy dao, lấy thớt, tìm
mắm, giã ớt... vừa làm vừa nói, vừa hỏi, vừa cười,
rôm rả. Khi ngồi vào bàn ăn, họ vui như cặp học trò
sau ba tháng hè gặp lại. Họ nhắc chuyện xưa, rồi bao
kỷ niệm. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau ngày giải
phóng. Liễu được cười, được vui như thế?
Bên ngoài gió mạnh hơn, rít vù vù, sợ vườn cây
bị dập nát mất. Tiếng mưa lúc nặng lúc nhẹ như vãi
cát lên mái nhà. Dẫu vậy, đối với Liễu, hơn ba năm
rồi, căn nhà này mới có được phút giây trở nên bình
yên, ấm áp như bây giờ. Thật dễ chịu, Trọng dành
phần rửa chén, pha trà, Liễu chỉ biết ngồi nhìn,
cảm động và thẫn thờ. "Sau đêm nay, biết đến
khi nào mới tìm được không khí trong nhà thế
nữa?". Họ ngồi nói chuyện rất khuya. Đến lúc
Trọng bế Liễu vào giường để nghỉ, chị còn bảo
anh ngồi lại để tâm tình. "Anh đến, khiến em vui
mừng quá!". Anh nhìn vào mắt Liễu: "Thế tại
sao em lại khóc?". Chị không trả lời, nằm nghiêng
lại, gác tay lên đùi anh. Giọt nước mắt rơi xuống
gối. "Mỗi lần nhớ lại chiếc áo dài trắng, em tưởng
như ngực mình đang vỡ ra từng mảnh. Đời đã đặt lên
số phận em một dấu chấm hết". "Em đừng nghĩ
quẩn". "Một kẻ què quặt còn gì!". "Thà
chấp nhận què quặt thể xác chứ không chấp nhận què
quặt tâm hồn". "Anh động viên em đấy à?".
"Anh nói chân tình". "Em khổ lắm! Chỉ còn
một ước mơ duy nhất cũng sợ người khinh!".
"Người nào lại dám khinh ước mơ của em?".
"Biết đâu... cả người ngồi ngay bên cạnh".
"Lạy chúa! Em nghĩ về anh như vậy?". "Không
dám, nhưng em sợ...". "Thế anh có thể giúp gì
cho em ? Tiếp theo những tiếng ngập ngừng, rào đón, e
thẹn, như phân thân giữa mộng và đời, bay lên giữa
những ước mơ thánh thiện thiết tha rồi loãng vào
trần tục xấu hổ, giữa tế nhị thiêng liêng và trơ
trẽn phũ phàng, táo bạo. Quá khứ và hiện tại, nhân
đạo và dã man, khổ đau và hạnh phúc... Tất cả chỉ
có khi vừa bước ra khỏi cuộc chiến - hiện thực
cuộc đời. Chị nắm tay anh: "Em muốn được làm
mẹ. Em muốn có một đứa con".
Trọng kinh ngạc, trợn tròn hai mắt: "Lẽ nào em
lại... làm khổ mình như vậy? Một đứa con... chín tháng
mang thai, rồi sinh nở, rồi nuôi dưỡng, bao điều cực
nhọc. Em lại mang tiếng, lại tiếp tục khổ đau, bất
hạnh". "Thôi! Anh đừng nói nữa. Em lường tất
cả rồi. Đó là hạnh phúc cho em. Có hạnh phúc nào không
qua gian khó, khổ đau". Bên ngoài mưa vẫn vãi hạt
trên mái nhà. Gió lồng qua khe cửa sổ. Ngọn đèn chao
qua chao lại muốn tắt. Phải chăng từ mẹ Âu Cơ cho đến
bao đời vẫn thế! Tiếng mưa hay những giọt đắng
nhỏ vào bể trần ai? Ôi thân con gái, phút giây hạnh
ngộ với đời... bồng bềnh và rùng rợn...
... Mãi bốn năm sau mới thấy một anh nhà báo Trung
ương về ghé thăm. Bé Hồng Nhi rất thích những món quà
anh mang đến. Anh ẵm và đùa với nó suốt từ sáng đến
chiều. Rồi anh lại ra đi. Bé chạy theo tiễn anh đến
đầu ngõ. Liễu ngồi trên chiếc xe lăn cuối sân, ngửa
mặt nhìn trời. Bầu trời mênh mông trong vắt, chỉ đôi
võng mây lãng du vắt ngang qua cuối chân trời, xa tít.
Lại vào đầu hạ, Hồng Nhi lững thững quay vào. Liễu
mơ màng tưởng như đôi chân mình đang được mọc thêm
ra, mọc thêm ra... Ngoài kia, bóng anh ấy khuất dần sau
đồng lúa. Đồng lúa sắp trở vàng, chao sóng theo
chiều gió. Đất trời êm nhẹ. Một chiều quê. Chiều
quê êm vắng, thanh bình.
Võ
Nguyên
Phan
Thiết 1992