Bà Đà thường đi làm từ sáng sớm,
chiều chạng vạng mới về. Chiếc khăn
thâm trùm cách nào đó mà bịt kín cả gáy cả
cổ, ngoài cái khe rất nhỏ dành cho hai con mắt
lấp loáng nhìn ra.
Dẫu là một người đẹp lộng
lẫy mà trùm bịt như thế cũng thành khó
hiểu, huống chi bà Đà là con người có
thân hình cứng cỏi, vai ngang dáng đàn ông, mà
tính nết cứ mưa, nắng, nắng mưa luân
chuyển nhau không ngừng.
Chiều nào không thấy đồ nghề của
ông Đà - chiếc gánh toòng teng một bên đựng
bốn, năm hòn đá mài các loại, và một
bên là cái chậu đồng sứt vành dùng đựng
nước - để ngoài hè, bà Đà liền
rít lên:
- Mất thây mất xác ở đâu giờ này
chưa chịu vác mặt về!
Còn như, nếu thấy ông Đà ngồi hút
thuốc lào trên cái giường do mấy tấm ván
thùng kê sát nhau, việc đầu tiên của bà
Đà là lấy từ chiếc túi xách ra chai rượu,
thuồi xuống trước mặt ông, kèm theo một
lời đay đả:
- Này mồ hồi của tôi đấy. Nước
mắt của tôi đấy. Nốc đi!
Không mấy khi bà để cho ông uống rượu
suông, mà thường có thêm vài thứ nhắm
đạm bạc; miếng đậu phụ bôi
nghệ nướng, một miếng vó bò, năm
thì mười họa còn có quả trứng vịt
lộn hoặc bộ lòng gà.
Mỗi tội thức nhắm càng ngon, ông Đà
càng phải nghe nhiều lời nhiếc móc của
vợ.
- Đội thúng than từ xà lan lên bãi
được mấy, ông biết không? Ba hào! Thế
mà một quả trứng vịt lộn những năm
đồng. Không nhờ cái đận phát tiền
năng suất thì có khối ra đấy mà hốc.
- Bà Đà vừa nói chồng sa sả vừa móc
túi lên vách, cởi khăn trùm, nhen bếp, bắc
nồi, lấy gạo đi vo... Công việc thoăn
thoắt trôi chẩy qua đôi bàn tay ngấm bụi
than đen kịt của bà.
Chai rượu trước mặt ông Đà cạn,
vừa lúc bà Đà bưng mâm cơm lên, hai vợ
chồng cùng ăn. Bấy giờ bà Đà dù có
nói trời nói đất, ông Đà cũng không lấy
làm điều, thậm chí ông còn thấy khoái nữa.
Nhịn đói suốt ngày, mỏi rạc cẳng
đi diễu qua các phố xá, được nhấm
chút rượu là chất men chạy rần rật
như kiến bò mười đầu ngón tay ngón
chân và làm tê dại mang tai ông, khiến người
ông lâng lâng.
Tuy vậy đã vài bận ông Đà xô cả
mâm cơm xuống đất rồi xông vào bà vợ
khốn khổ mà đấm đá túi bụi.
Đó là những lần bà Đà nhiếc ông là
giết chết con để ăn một mình cho sướng
mồm.
Cánh đàn ông hàng xóm tuy không phải là lũ
ác bụng nhưng đều đồng thanh ủng
hộ ông Đà thẳng tay trừng trị bà vợ
tai quái.
- Thế! Giã nữa!
- Vợ tôi mà thế tôi tẩn nhừ xương!
- Đem mà trôi sông cái của nợ ấy
đi!
Trước sự "chi viện" nhiệt tình
ấy, ông Đà quắc mắt đáp lại:
- Việc nhà tôi, ai mượn các ông chõ vào? Người
ta khổ quá rồi phải để người
ta nói cho hả bớt cái khổ đi chứ!
Nói vậy nhưng sau mỗi lần xô xát, ông
Đà sợ, không dám nhìn vào mặt vợ mấy
ngày liền.
"... Cái năm Nhật kéo sang ta, ông Đà
đương làm anh chân sào trên một chiếc
thuyền đinh bề thế chẳng kém ngôi nhà
ngói năm gian. Cứ bẩy ngày một lần ông
chủ lại chất đầy gạo, muối, dầu
tây, vải, lụa lên thuyền, cho nhổ sào
ở bến Lục Dầu để ngược lên
mạn Đồng Trâu, Hố Sếu, qua Ngàn Trâu
Danh, lên tận Bãi Thải. Đến Bãi Thải,
nhiều khi dỡ hàng xong không kịp nghỉ,
đã nhận khách vội vàng để bắt con
nước trở xuôi luôn.
Cánh chân sào thuyền gồm mười tay trai lực
lưỡng, năm người chạy be tả,
năm người chạy be hữu. Công việc
bao giờ cũng bắt đầu từ phía mũi
thuyền, hai hàng người nhất tề lao phập
những cây sào trẩy dài đầu bịt sắt
xuống lòng sông, đuôi sào tỳ vào hõm vai, một
người cất giọng: "Bớ dô
hò..." chín người kia "dô huậy", mặt
nước trước mũi thuyền rẽ thành
hai làn sóng trắng hình mũi tên, mấy người
chân sào cúi gầm mặt, gò lưng bước xuôi
để con thuyền nặng nề lao ngược
dòng. Tới đuôi thuyền, tất cả lại
nhất tề rút sào, trở về đằng
mũi, và lại bắt đầu đúng y như
thế.
Một buổi sáng thuyền về đến bến
Lục Dầu, hành khách chen nhau qua mảnh ván cầu
để lên chợ, có một cô gái cứ quẩn
quanh dưới khoang. Đà bước lại gần
cô, cất tiếng hỏi:
- Nhà chị này có hàng nặng, không ai đỡ,
hử?
- Không không - Cô gái giật mình hoảng hốt -
Tôi có hàng gì đâu!
- Sao còn loanh quanh mãi?
Cô gái bỗng òa khóc:
- Tôi sợ...
- Sợ gì?
- Sợ người ta đón bắt tôi trên
ấy...
Đà hiểu ngay ra tình thế của cô gái:
- à. Lại trốn chúa lộn chồng chứ
gì? Phải thế cứ nói thật thì tôi giúp...
Việc nên vợ nên chồng giữa hai người
đã bắt đầu một cách rất
đơn sơ. Tới năm giáp khởi nghĩa,
gặp nạn đói khủng khiếp, khắp nơi
người chết xếp chồng đống thì
đứa con trai đầu lòng của vợ chồng
ông Đà đã biết chạy lon ton theo bố mẹ
đi xin ăn.
Vợ chồng ông Đà dẫn cu Thấn - tên
đứa con - phiêu dạt từ Phả Lại
lên Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi quay xuống Hà Nội.
Họ uống nước lã cầm hơi nằm
ở sân ga một đêm, một ngày.
Tối hôm sau bà Đà nói với chồng:
- Cái chết là cầm chắc rồi. Nhà xem còn
cách nào cứu lấy con?
Ông Đà lẳng lặng đứng dậy bỏ
đi. Ông vào một cửa hàng ăn trước
cửa ga đèn điện sáng trưng, đứng
xòe hai bàn tay đợi hồi lâu không thấy ai
cho mình chút gì. Ông đành liều thò tay vào thúng
bún của chị chủ hàng, chộp một nắm.
Nhưng ông vừa quay ra được vài bước,
chưa xuống khỏi vỉa hè, đã ngã sấp
mặt vì một cái ghế ném theo đúng giữa
lưng. Vốc bún trên tay ông, không hiểu bị
những người ăn mày chung quanh xô lại cướp
hay bị chủ hàng giật lại lúc nào ông
không hay.
Lê lết về được chỗ vợ con
nằm, ông Đà nghĩ ra được một kế
để họa may cứu sống được
bé Thấn. Ông bế nó đến giữa chỗ
đông hàng quán nhất, cắn con một miếng
chảy máu ở má rồi bỏ nó lại, vùng chạy.
Suốt mấy chục năm, từ thời Nhật
rồi Việt Minh, rồi Pháp tạm chiếm, tới
ngày thủ đô được giải phóng và
mãi tận bây giờ bà Đà trở thành công
nhân ở cảng than, còn ông Đà vẫn chỉ
làm độc một cái nghề đi mài dao thuê.
Chẳng ai nghĩ chuyện làm giầu bằng
cái nghề nhỏ mọn này. Nhưng với ông
Đà thì lại không thể bỏ mà tìm công việc
khác. Ngoài cơm gạo ra, vợ chồng ông còn phải
nuôi sống lẫn nhau bằng một nguồn hy vọng.
Sáng sáng, ông quẩy chiếc gánh nhẹ tênh, một
bên đá mài một bên chậu nước, thả
bước đến khắp mọi ngõ ngách trong
thành phố, gặp bất kỳ người đàn
ông trai tráng nào vào trạc tuổi bé Thấn năm
xưa ông cũng nhìm chằm chằm vào bên má phải
của họ.
Bé Thấn "khi xưa" giống mẹ nhiều
nên nó cao lớn, vai hơi ngang, mắt lá răm,
khi cười có một lúm đồng tiền
ở bên má bị bố cắn, chắc là thành sẹo.
Hai mẹ con giống nhau ở cái dáng đi lúc
nào cũng vội vàng "chân không bén đất".
Ông Đà tin vào câu tục ngữ "trai giống
mẹ thì khó ba đời". Nếu trời
để bé Thấn qua cái nạn đói kinh sợ
ấy mà còn tới ngày nay, may mắn nó chỉ
đủ tay vo miệng lốm như bố mẹ
nó là cùng. Vì vậy, hễ thấy có người
đàn ông nào ăn mặc sang trọng lại có
chút gì hao hao giống vợ mình là ông run lẩy bẩy
vì hồi hộp. Ông như bị thôi miên, chân chạy
theo, mắt nhìn, miệng lắp bắp: "Lạy
trời! Biết đâu!..." Dĩ nhiên lát sau
ông Đà lại ỉu xìu và tự nhủ: mình mơ
tưởng thế làm gì, nên để mắt vào
đám làm thuê làm mướn, chữa xe đạp,
đánh xe trâu, quạt bễ lò rèn, gác cổng, thợ
nề, thợ mộc... thì hơn.
Chẳng bao lâu kể từ khi ông Đà cất
tiếng rao "Mài dao, mài kéo đây", ông đã
có cả một đội ngũ bạn "áo ngắn"
rải rác từ Gia Lâm xuống tới Ngã Tư Vọng,
từ dốc Vĩnh Tuy lên tới làng Láng, làng
Cót. Ông lân la nhờ các "chiến hữu"
tìm thằng cu Thấn hộ mình. Những đứa
trẻ bị cha mẹ bán, hoặc bị cha mẹ
bỏ đường bỏ chợ trong nạn
đói ất Dậu tới nay còn nhiều lắm,
họ đều đã phương trưởng và
đã có bố mẹ anh em gặp lại nhau. Duy
có thằng cu Thấn màu da trắng, vai hơi ngang,
và có nốt răng của bố để lại
trên má, chưa ai gặp.
Ông Đà vẫn rong ruổi qua các phố xá nội
thành, cả những làng ngoại ô. Buổi sáng, vợ
chồng ông mỗi người mỗi ngả ra khỏi
nhà với chút hy vọng cầu may, để rồi
buổi chiều về thấy căn nhà lợp giấy
dầu vẫn trống lạnh như xưa, làm bà
Đà lại nổi tam bành, nhè ông chồng mà
trút hết những lời cay độc.
Lâu dần hàng xóm đâm quen. Đám đàn ông
thôi làm hậu thuẫn cho ông Đà "thi hành những
biện pháp cứng rắn" đối với bà.
Vài người phụ nữ vô công rồi nghề
cũng thưa dần câu chuyện về bà trong những
cuộc ngồi lê đôi mách. Mặc dù, khi tuổi
mỗi ngày một nhiều thì sự căng thẳng
giữa vợ chồng ông Đà lại càng ngày
càng khó gỡ hơn.
Một ngày chủ nhật, bà Đà ở nhà một
mình, ông vẫn quẩy gánh đi như mọi khi.
Thoạt tiên bà lẩm bẩm nhiếc móc cho riêng
mình nghe, sau đó ngọn lửa ma quái xông lên ngực
bà, thế là bà bỏ hết mọi việc ngồi
ghé mép giường mặc sức réo tên ông ra mà
nguyền rủa.
"Cứ vác mặt về đây. Chuyến này
thì bà xé xác!" - Bà tuyên án vắng mặt ông như
thế, và nhăm nhăm đợi mặt trời
chóng lặn để ông "vác mặt" về.
Bà Đà chẳng phải đợi lâu. Xế
chiều hôm ấy ông Đà đã lử khử quẩy
cái gánh thợ mài dao về. Ném cho bà một nắm
tiền lẻ toàn loại năm xu, một hào, rồi
ông đi nằm. Bà Đà thấy chồng khang
khác, không những đã quên những lời
đay nghiến được mài dũa suốt từ
sáng, bà còn sờ tay lên trán ông. Người ông
Đà nóng chín, làm bà Đà cuống cuồng. Mấy
chục năm nay, đây là lần đầu bà
Đà nói ra những lời dịu dàng với chồng:
- Nhà ơi. Tôi nấu cho nhà bát cháo đậu
xanh ăn cho nó giã sốt, nhé?
Ông lắc đầu, mắt vẫn nhắm nghiền.
Bà lại vuốt ve bộ râu lởm chởm bạc
gần hết trên cằm ông.
- Dậy tôi bảo này! Chịu khó uống chén rượu.
Nhé? Nhà bị cảm nắng đấy!
Ông Đà thương vợ, ứa hai hàng nước
mắt. Ông muốn ngồi dậy nhích nhắc tay
chân cho bà vui, nhưng sức ông đuối quá rồi.
Sáng hôm sau thì ông "đi". Bà Đà bật
ngọn điện tù mù ở giữa nhà, ôm lấy
thi hài ông mà lay, lắc, nhày nhã như đang đánh
vật. Lúc đã kiệt sức mà vẫn không sao
làm cho chồng sống lại được, bà
Đà rú lên:
- Ông ơi là ông! Chai rượu tôi mua còn kia. Từ
nay mua cho ai uống nữa hở trời!
Tiếng khóc xé ruột gan của bà Đà cất
lên từ lúc còn tối đất. Nghe giọng bà,
hàng xóm ngỡ ông bà lại xảy ra chuyện gì,
nhiều người lẩm bẩm rủa bà vài tiếng
rồi lại ngủ. Mãi lúc nghe kỹ, biết
ông Đà đã chết, mọi người mới
choàng dậy chạy túa sang.
Xưa nay cái cảnh góa bụa vẫn thường
xảy ra cho loài người. Nỗi đau dội
lên, uất lên một thời gian rồi dịu dần.
Sự quên lãng là một trong những bản năng
tự vệ giúp cho con người tồn tại
được.
Nhưng hình như ở bà không có cái "bản
năng tự vệ" ấy. Liền mấy tháng,
đêm nào bà cũng kêu thét gọi ông suốt từ
đầu hôm đến sáng. Trời thì đã
sang đông, gió lạnh từ mặt sông Hồng
thổi thốc vào căn nhà giấy dầu thủng
tan hoang do chính tay chủ nhân của nó xô, đập,
cào, xé.
Sang tới mùa xuân, giữa lúc cỏ cây đến
con người đều xanh tươi trở lại
thì bà Đà chỉ còn da bọc xương. Một
đêm không nghe tiếng bà kêu thét, sáng hôm sau hàng
xóm chạy sang đã thấy bà nằm bất tỉnh
giữa những mảnh chăn rách, trên mình chỉ
một tấm áo dệt kim đã mốc meo và chiếc
quần bảo hộ lao động bạc phếch.
ở bệnh viện người ta hết lòng cứu
chữa cho bà Đà. Vài ngày sau, bà tỉnh lại
biết thều thào cảm ơn những người
hàng xóm đã mang cam, mang đường và luân
phiên vào chăm sóc bà.
"Khổ đến thế. Con người cay
cực suốt đời. Khi cái sung sướng nằm
trong tay thì lại lăn ra chết" - Cả khu
phố bờ sông tới nay mỗi khi nhớ đến
bà Đà, bà con lại chép miệng nói thế.
Số là, ở nơi bệnh viện bà Đà nằm
cấp cứu, có một bác sĩ trưởng khoa
tên là Dũng, tuổi xấp xỉ bốn
mươi, vai hơi ngang, nước da trắng và
đôi mắt dài rất linh lợi. Một lần,
khi bà Đà đã qua khỏi cơn nguy kịch, bác
sĩ Dũng đến khám bệnh cho bà theo thường
lệ trong ngày. Bác sĩ bảo bà tháo áo để
đặt ống nghe vào ngực bà. Anh đang
chăm chú nghe tiếng tim dội thì thụp tự
dưng bà già cứ nhổm người vừa nhìn
sát mặt anh vừa sờ lên vết sẹo trên
má anh. Bảo bà nằm yên mấy lần không
được, bác sĩ Dũng phát bực gắt:
- Cụ làm sao thế!
Bà già không trả lời bác sĩ Dũng mà
thét lên một tiếng: "Con!" làm cho cả
phòng bệnh giật mình. Rồi bà tắt thở.
Mọi cách cứu chữa của bệnh viện
đều vô hiệu.
Khi phải tự thú nhận mình hoàn toàn bất
lực, bác sĩ Dũng ngồi cạnh bà Đà,
ôm mặt khóc rưng rức.
Dũng là con nuôi của một cán bộ trong
quân đội. Ông có tới sáu người con, thêm
Dũng là bảy. Những khi gia đình tụ hội,
con cháu chật nhà, ông vẫn kín đáo dành riêng
cho Dũng chút chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên,
càng lớn lên Dũng càng thấy mình đang âm thầm
ngóng đợi một con người, dù sớm muộn
thế nào sẽ có một ngày con người
ấy tìm ra anh...
Nhiều năm về sau, vào những ngày giỗ
ông bà Đà, bác sĩ Dũng thường
đưa vợ con về thăm những gia đình
hàng xóm của ông bà, và thế nào anh cũng có
quà đến thăm hỏi những người là
bạn "hạt gạo cắn đôi" của
bà Đà hiện đang nghỉ hưu trong khu tập
thể của cảng.
Những người bạn của bà Đà
đều gọi Dũng bằng con, và đối
xử với anh đúng như cách xưng hô. Mặc
dù bà Đà không còn, nhưng tình thương bầu
bạn bà để lại vẫn còn khắp nơi
nơi. Ngày nay hễ nhắc đến bà là những
người bạn già của bà lại nghẹn
ngào.
Họ kể rằng: vào tiết đông và tiết
xuân, lòng sông Hồng cạn rặc, những cồn
cát nổi vờ vờ bên dưới mặt
nước lắng trong dần dần, ấy là những
ngày trời đất gió thổi vô hồi. Cứ
sáng ra, những người công nhân phát khổ
lên vì những ngọn gió lạnh như dao cắt
vào da thịt. "ấy nhưng mà cháu ạ - Các
bà già nói với bác sĩ Dũng - cái buổi sáng
mẹ cháu "đi", trên mặt sông cũng
như trên bến cảng, trời bỗng dưng lặng
phắc, không một hồi gió.
Như thế là hồn thiêng lắm!".
Hà Nội, 8-1985