Hai người già ngồi nói chuyện với nhau, khe khẽ và
thong thả như những người già vẫn thường nói chuyện
với nhau.
Đêm tháng chạp trời tối và lạnh. Gió thổi nhẹ
từng đợt ngắn làm cánh cửa gỗ không cài then chốc
chốc lại đập vào khung cạch cạch... Có tiếng chuột
đuổi nhau chít chít đâu đó sau chiếc cối xay cũ, nhưng
con mèo vàng từ lâu đã nằm khoanh tròn bên đống tro
ấm ngay sát ngọn lửa, vẫn lười biếng không chịu
dậy đuổi bắt, mà chỉ khẽ ngẩng đầu, đưa mắt nhìn
một cách tiếc rẻ rồi lại uể oải nằm xuống như cũ.
Trên bếp, nồi cám lợn sôi òng ọc, có lẽ đã dừ chín,
nhưng thỉnh thoảng người này hoặc người kia lại lơ
đãng cho vào bếp một khúc củi gộc.
Những sợi khói mảnh bốc lên, ngoằn ngoèo, chậm
chạp. Chốc chốc một vài tàn lửa rơi lên áo họ, để
lại những chấm trắng nhẹ và xốp.
Bà là một phụ nữ nông thôn bình thường, trạc 70
tuổi, chiếc khăn đen cũ buộc trùm lên đầu, che một
phần lớn khuôn mặt thanh tú và thư thản. Một tay bà
luôn cầm chiếc que cời dí dí xuống đất. Còn tay kia
đặt lên đầu gối, hầu như bất động. Trông bà có
vẻ lơ đễnh như đang suy nghĩ một chuyện gì xa xôi đâu
đó, nhưng thực ra bà đang rất chú ý lắng nghe người
ngồi đối diện.
Người ngồi đối diện là ông, ông mới từ Pháp
về. Ông là Việt kiều về thăm quê lần đầu sau hơn
10 năm xa cách. Hôm nay ông lên chuyến tàu nhanh 2 giờ
chiều rồi một mình đi bộ từ ga về nhà, tức là
suốt gần 15 cây số. Tất nhiên cảnh vật, làng xóm,
đường xá bây giờ khác xưa, hoàn toàn không thể nhận
ra, ấy thế mà tự ông vẫn tìm được đường về làng
- có lẽ do nhờ một sự cảm nhận đặc biệt nào đấy
mà chỉ những người già như ông mới có. ở làng, ông
chẳng còn ai thân thích ngoài một người cháu gọi ông
là cậu. Chuyện trò, thăm hỏi một lúc với gia đình ông
cháu và những người láng giềng nghe tin kéo đến, vừa
ăn tối xong, ông đã sang đây thăm bà.Hai người ngồi
đối diện nhau bên bếp lửa sắp lụi. Họ nói chuyện
nhỏ nhẹ và thong thả. Câu chuyện thường bị ngắt quãng
bởi những lúc im lặng kéo dài. Thoạt nhìn, có thể tưởng
họ là hàng xóm láng giềng hàng ngày vẫn gặp nhau,
vừa ngồi sưởi vừa trao đổi vu vơ đôi câu cho đỡ
buồn ngủ. Chính họ, cả ông lẫn bà, cũng phải thầm
ngạc nhiên vì sự bình tĩnh của mình, ít ra là bề ngoài.
Cả hai đều chờ đợi cuộc gặp này từ rất lâu, đến
nỗi thậm chí đã mất hy vọng và đã gần như thôi không
chờ đợi nữa.
Một cơn gió thổi mạnh vào cánh cửa. Ngồi trong nhà
có thể nghe rõ tiếng lá khô lạo xạo trên sân gạch.
- Con đâu? - ông chợt hỏi, ngước đôi mắt cận
nặng hấp háy sau cặp kính dày nhìn bà, giọng không
thay đổi. Chỉ những ngón ty run run lần nới lỏng
chiếc cà vạt sẫm màu trên cổ là nói lên ông đang xúc
động và hồi hộp.
Bà ngồi im không đáp, đờ đẫn nhìn một cục than
đỏ rực, nứt nẻ thành những ô vuông nhỏ trong bếp.
Ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi.
Một lúc sau sợ bà không nghe rõ, ông khẽ nhắc lại
một lần nữa:
- Con của chúng mình đâu, bà? Đứa con ngày xưa ấy?
Cái ngày xưa ấy, tức là cách đây hơn 50 năm, bà là
một cô gái xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng. Còn ông là
chàng trai con nhà bên, cũng nổi tiếng không kém - vì
khoẻ mạnh và vì táo tợn. Hai người cùng nhau lớn lên
và yêu nhau, một tình yêu tự nhiên, giản dị trong khuôn
khổ nông thôn phong kiến và lạc hậu thời đó. Gia đình
nhà ông và nhà bà đều nghèo, xưa nay vẫn chơi thân
với nhau, nên nói chung không phản đối cuộc tình duyên
này. Những tưởng mọi chuyện đâu sẽ vào đấy, ai
ngờ bất chợt tai hoạ đổ xuống đầu đôi bạn trẻ.
Số là trong làng có lão chánh tổng thấy bà xinh đẹp,
liền nảy ra ý định lấy bà làm vợ ba. Ngày ấy chánh
tổng quyền to lắm, muốn làm gì với ai, người ấy
phải chịu. Không hiểu từ đâu hắn moi ra một món nợ
hai trăm đồng bạc, bắt bố bà trả ngay, nếu không
phải gả con gái cho hắn để trừ nợ. Một thủ đoạn
không lấy gì làm mới và tinh vi, nhưng bao giờ cũng mang
lại kết quả mong muốn. Và thế là đám cưới được
dự định giữa hai người không thành. Không còn cách nào
khác, bà đành phải lau nước mắt nghe bố về làm lẽ,
hay đúng hơn, làm người hầu trong nhà ông chánh. Còn gnười
yêu của bà, không nói cũng biết, đã đau khổ và tức
giận như thế nào.
Ông rủ bà cùng bỏ trốn thật xa, nhưng bà không dám
vì sợ liên luỵ đến gia đình. Ông đã cầm dao định
đến nhà lão chánh tổng và đâm chết hắn, rồi, rồi
sau muốn ra sao thì ra. May thay, bà biết và kịp ngăn
lại. Cuối cùng, sau khi đã thoả thuận với lão chánh
tổng, ông quyết định bỏ nhà lên tỉnh kiếm tiền
mang về chuộc lại người yêu. Hôm ông đi, cũng vào
một đêm mùa đông gió và rét thế này, bà đã theo ông
tới tận ga xe lửa, và ở đó, vừa khóc bà vừa nói
với ông rằng bà đã có thai, rằng bà sẽ chờ ông
về, chờ mãi... Ông ôm chặt bà vào lòng. Hai người
cứ thế đứng lặng hồi lâu, rồi bất chợt ông buông
bà ra và nhảy lên một đoàn tàu lúc ấy bất ngờ đang
chạy qua, với niềm tin hầu như chắc chắn rằng chỉ
ít tháng sau ông sẽ quay về với đủ số tiền cần
thiết.
ác thay, số phận đã không chiều ông. Cuối cùng thì
ông cũng trở lại được quê hương, có điều không
phải sau ít tháng như ông muốn, mà sau 50 năm. Đứa con
ông hỏi bà lúc nãy là đứa con bà cho ông biết đêm
ấy... Thấy bà ngồi im không nói gì, ông đổi đề tài,
với hy vọng chốc nữa bắt chuyện, bà sẽ cho ông
biết điều ông quan tâm nhất.- Nói chung, bà sống thế
nào?
- Cảm ơn ông, không đến nỗi - Bà đáp, vẫn không
ngước lên. Rồi ngừng một chốc, bà nói tiếp - Cũng
như mọi người trong làng thôi.
Vì mới về và hầu như chưa trò chuyện nhiều với
ai nên ông không biết về đời riêng của bà, nếu không
kể điều duy nhất ông viết được - qua người cháu -
là xưa nay bà vẫn sống một mình, lúc đầu với con
trai, rồi con lớn đi bộ đội, lấy vợ, sinh con đẻ cái
đâu đó tận Mộc Châu, bây giờ thỉnh thoảng mấy năm
một lần vợ chồng mới về Nghệ An thăm bà. Đó có
phải là con ông không? Hay con của lão chánh tổng, nếu
hắn kịp để lại cho bà một đứa con? Điều ấy đã
làm ông băn khoăn suốt buổi chiều hôm nay. Còn về ông,
cũng qua người cháu, đến hàng xóm và cuối cùng đến
bà, bà biết được rằng ông có vợ và hai con. Vợ ông
người Pháp, cả gia đình đều ở bên ấy, ở ngay thủ
đô Paris. Bà còn nghe người ta đồn là bây giờ ông
rất giàu, có xe hơi và nhà lầu riêng, nay mai sẽ có
cả một chuyến ô tô chở quà của ông về chia đều
khắp làng. Nghe tất cả những điều ấy, bà chỉ im không
nói gì. Mà rồi trước việc ông trở về đột ngột như
vậy, bà cũng chẳng biết tình cảm của bà ra sao nữa.
Vui hay buồn? Hay dửng dưng?
Có lẽ dửng dưng thì đúng hơn. Tình cảm của bà như
bếp lò bà đang ngồi bên hôm nay, cũng từng một thời
bùng cháy, thật rạo rực, thật mãnh liệt, nhưng bây
giờ chỉ còn lại một đám tro âm ỉ nóng để không lúc
nào còn cháy đỏ trở lại.
- Tại sao bà không lấy chồng? - Ông hỏi - Không lẽ
suốt chừng ấy năm bà vẫn...?
- Không - Bà thản nhiên đáp - Tôi không lấy chồng,
nhưng không phải vì chờ ông.
Giọng bà vẫn đều đều không thay đổi, tuy vậy,
nếu thật chú ý lắng nghe và lúc ấy nếu trong nhà có
đèn sáng, ông có thể nhận thấy qua giọng nói và nét
mặt bà một điều gì đó. Nhưng vì già, mắt lại kém
và trong nhà mờ tối nên ông đã không nhận thấy điều
ấy.
Ông bỏ nhà ra đi đúng được 9 tháng thì cách mạng
nổ ra. Lão chánh tổng bỗng mắc bệnh rồi chết. Bà ôm
con về nhà bố mẹ và bắt đầu hết ngày này đến ngày
khác mong chờ ông trở lại. Bây giờ thời thế đã thay
đổi, không cần hai trăm đồng kia họ cũng có thể
lấy nhau. Chỉ cần ông trở lại. Bà chờ và tin là ông
sẽ trở lại, nhưng một tháng, hai tháng rồi năm tháng
trôi qua mà vẫn không thấy ông đâu. Bà nhờ hết người
này, người nọ tìm giúp, nhưng mọi cố gắng của bà
đều vô ích. Một lần không nén được, bà đã bồng
con ra ga, định lên tỉnh hay thậm chí đi cả Hà Nội để
tìm chồng, nhưng người nhà biết, chạy theo bắt bà
quay lại. Bà đã chờ như thế rất lâu, vừa thương,
vừa oán trách ông, hoàn toàn không biết rằng ông, sau
khi đã hết cái thời hạn mấy tháng tự ông đặt ra
kia mà vẫn không dành dụm được đồng nào, cuối cùng
thất vọng, ông trốn lên một tàu buôn sang Pháp, định
thử số phận một lần nữa bên đó.
- Còn ông, ông sống thế nào? - Bà hỏi, tức là ý bà
muốn hỏi suốt năm mươi năm qua ông đã sống thế nào.
- Cũng bình thường như người khác. Nghĩa là khó khăn,
rất khó khăn... Bà tha lỗi cho tôi là suốt từ bấy đến
nay tôi đã không kiếm đủ tiền để về chuộc bà...
Quả đúng cuộc đời của ông không dễ thật. ở Pháp,
mẫu quốc, kiếm tiền cũng khó như ở An Nam thuộc địa.
Ông đã từng thất nghiệp hàng năm, từng suýt chết đói,
từng làm đủ nghề và thử tìm vận may khắp nơi. Kể
ra thỉnh thoảng số phận nghiêm khắc cũng khẽ mỉm cười
với ông, nhưng ác thay, không bao giờ đến mức cho phép
ông kiếm đủ tiền mua vé tàu biển trở lại quê hương.
ở tuổi gần 50, hoàn toàn mất hết hy vọng, ông lấy
vợ, lấy một phụ nữ Pháp cũng nghèo và gặp nhiều
bất hạnh như ông...- Sao ông không cho bác gái và các cháu
về thăm quê luôn thể?
- Tôi về lần này cùng một đoàn Việt kiều yêu nước.
Hội chi phí. Vả lại... vả lại... ông ngập ngừng,
khẽ mỉm cười như người có lỗi - Về một lúc mấy
người, tự lo, tôi không đủ tiền...
Bà định hỏi "Sao nghe nói ông giàu lắm?" nhưng
nghĩ thế nào lại thôi. Hai người im lặng. Một lúc
sau, thấy bà có vẻ bắt chuyện hơn, ông quay lại câu
hỏi làm ông băn khoăn từ đầu. Ông nói:
- Tôi nghe nói bà có một người con trai.
- Vâng
- Con của tôi?
- Không.
Ông húng hắng, những ngón tay run rẩy đưa lên nới
chiếc cà vạt trên cổ.
- Tôi không hiểu... Nhưng... nhưng nó có phải là đứa
con bà nói với tôi cái đêm hôm ấy không?
- Đúng thế - Bà đáp, vẫn không thay đổi giọng, không
thay đổi cả nét mặt lẫn thế ngồi. Rồi bà nói
tiếp, đoán là ông ngạc nhiên không hiểu: - Vâng, đúng
là nhờ ông mới có nó, nhưng thế chưa đủ để thành
con ông. Để làm bố, phải cần nhiều hơn, nhiều hơn
nhiều...
Bà im lặng, nhìn đăm đăm vào đóng than hồng trong
bếp. Sau cái vỏ bình tĩnh bề ngoài, từ lâu trong lòng,
bà đang khóc, bà khóc cho cả chừng ấy năm đau khổ. Bà
trách ông - trách lắm chứ! - Vì ông đã bắt bà phải
chờ đợi lâu như thế, bắt bà phải vất vả như
thế. Cũng vì ông mà bà phải cô đơn suốt đời. Tất
cả những điều ấy quá sức một người chịu đựng,
cả khi người ấy là phụ nữ. Và cũng quá sức chịu
đựng của bà cả cái điều sau 50 năm bà mòn mỏi chờ
ông, cuối cùng ông về, một vợ và hai con, ông hỏi:
"Không lẽ suốt chừng ấy năm bà vẫn chờ tôi à?".
Và tính tự ái ương bướng của người phụ nữ bị
bỏ rơi đã bắt bà nói trái lòng mình.
Thực ra bà vẫn biết ông không có lỗi. Ông cũng
chẳng hạnh phúc hơn bà, quả vậy, nhưng dù sao, dù
sao...
... Bà chờ ông suốt cả 9 năm kháng chiến. Ngày nào
bà cũng chờ, và ngày nào bà cũng tin là hôm nay có thể
ông sẽ về. Nhưng ông đã không về. Rồi hoà bình,
rồi hoà bình được một năm ông cũng không về nốt.
Đến lúc này thì bà nghĩ có lẽ ông đã chết, và bà
thôi không chờ đợi nữa, tuy trong lòng bà vẫn nghĩ có
thể một ngày nào đó bất chợt ông sẽ xuất hiện. Ông
là người táo bạo, bướng bỉnh mà. Với ông, điều gì
cũng có thể xảy ra. Từ bấy đến nay bà ở vậy nuôi
con, vì quá đau buồn, quá mệt mỏi để bước thêm bước
nữa. Năm tháng tiếp nhau trôi qua, rồi dần dần trong làng
hầu như chẳng còn ai nhớ tới câu chuyện tình yêu
trắc trở giữa ông và bà...
Ông hỏi:
- Khi tới Pháp, tức là cách đây... - Ông dừng lại
để nhẩm tính - Năm mươi mốt năm một tháng tôi có
gửi cho bà một bức thư, bà nhận được không?
- Không - Bà dáp.
- Và năm 54, sau chiến thắng Điện Biên, một thư
nữa? - Giọng ông nhỏ nhẹ và tự nhiên như một người
nào đấy vừa ngáp vừa hỏi bạn: "Tháng trước mình
gửi thư cho cậu, cậu không nhận được à?".
Bà lại lắc đầu, rồi lần đầu tiên bà nhìn
thẳng vào mắt ông, hỏi:
- Và sau đó thì thôi? Chỉ hai thư? Trong suốt năm mươi
năm?
- Vâng - Ông đáp, vờ cúi xuống thổi lửa để tránh
cặp mắt của bà - Vì tôi hoàn toàn bất lực trước hoàn
cảnh của mình. Vì tôi sợ làm ảnh hưởng đến hạnh
phúc của bà, tất nhiên nếu bà có hạnh phúc... Bà... bà
hãy tha thứ cho tôi - Giọng ông run run - Tôi không còn là
một thằng đàn ông nữa, tôi đã không kiếm đủ tiền
để về chuộc bà... Vâng, suốt đời chừng ấy năm...
Hai giọt nước mắt lớn, màu đục từ từ lăn trên
má ông cho đến lúc gặp mắt kính, toả ra hai bên. Ông
cứ mặc nước mắt tự do trào ra mà không cảm thấy
xấu hổ. Bà bỗng cảm thấy thương hại ông, thương
hai cả chính bà nữa. Đôi mắt cay cay, bà lái câu
chuyện sang hướng khác:
- Thế tuổi già của ông, ông định thế nào?
Ông không đáp ngay, thong thả lấy chiếc khăn mùi xoa
lụa từ trong túi ra, và cũng thong thả như thế, ông
chấm chấm khăn lên hai mắt, lên mặt, rồi nói.
- Cũng đành sao chịu vậy chứ biết làm gì hơn? Bà
xem lúc trai trẻ, còn khoẻ, còn cần cho bà, cho làng xóm
thì tôi lại lang thang nơi quê người. Bây giờ thế này,
không lẽ tôi còn dám dẫn bộ xương già về quê, để
rồi mai mốt chiếm thêm một thước đất làm mộ,
uống thêm một ít nước, ăn thêm một ít cơm gạo, cái
mà thiếu tôi ở đây vốn cũng chẳng lấy gì làm
thừa...
Im lặng.
- Ông thấy quê hương bây giờ thế nào? - Bà hỏi.-
ồ khác lắm, mới lắm. Tôi mừng lắm. - Ông đáp ngay -
Chẳng còn tí gì giống trước, trừ cây đa đầu bến.
Cây đa chứ không phải dòng sông. Dòng sông bây giờ
bị nắn thẳng, rộng ra và xấu đi... ấy thế mà không
hỏi ai, tôi cũng tự tìm được về làng đấy. Và nếu
ngôi nhà cũ của bố mẹ tôi còn, có lẽ tôi cũng tìm
ra được...Giọng ông có vẻ vui hơn, không phải không
pha đôi chút tự hào.
Lại im lặng.
Cứ thế, họ nói chuyện với nhau, nhỏ nhẹ và rời
rạc.
Tuy nhiên, đó chưa phải những gì ông muốn nói, cũng
không phải những gì bà quan tâm muốn biết. Cả hai đều
hiểu rằng giữa họ đang có chuyện khác lớn hơn, quan
trọng hơn. Nhưng không hiểu sao - lúc người này, lúc người
kia, có lúc cả hai, họ như sợ không muốn nói tới điều
đó, dù biết trước thế nào cũng phải nói.
Ngoài trời, hình như mưa lất phất rơi, gió vẫn
thổi từng đợt ngắn, ẩm và buốt như trước. Nồi cám
lợn đã được nhắc xuống đất sát con mèo đang nằm
khoanh tròn, hai mắt lim dim.ở nhà ngoài, chiếc đồng
hồ treo tường cũ kỹ bà được chia từ hồi cải cách
ruộng đất, thong thả gõ mười hai tiếng.- Mười một
giờ - Bà nói, sau một lúc dài hai người im lặng - Đồng
hồ nhà tôi bao giờ cũng gõ thừa một tiếng.
Ông đứng dậy, húng hắng ho như người có lỗi. Bà
vẫn ngồi yên, cũng không ngước nhìn lên.
- Bà không bao giờ nói gì với con về tôi à? - Cuối
cùng ông hỏi.
- Không.
- Bây giờ nó có nhận tôi là bố không? - Ông lại
hỏi, càng rụt rè hơn trước - à mà lúc nãy bà đã nói...Im
lặng.
Trước mắt bà lại hiện lên cảnh bà ôm con định lên
tỉnh tìm chồng, cảnh những năm tháng cô đơn lam lũ,
những đêm dài khóc thầm, úp mặt xuống gối.
- Tôi không biết, nhưng có lẽ là không... - Bà nói.
Ông đứng yên, người co lại, đầu hơi cúi xuống như
một cậu học trò không thuộc bài đứng chờ cô giáo
cho điểm yếu.
Tôi muốn nhờ bà một điều... Tôi xin bà... - Ông
lắp bắp nói - Tôi không thể... Bà cho phép tôi được
gặp con, dù chỉ một lần, dù phải giấu tôi là ai... Tôi
không thể về đến đây mà không gặp nó... Được không...
bà? - Tay ông run run, hơi chìa ra phía trước và khẽ
chạm vào mái tóc buộc khăn của bà.
Cảm thấy khách đứng mà mình thì cứ ngồi mãi, không
tiện, bà đứng dậy.
- Cái đó tuỳ ông - Bà nói - Nếu ông muốn, tôi sẽ
cho ông địa chỉ. Có thể con sẽ tha thứ cho ông cũng nên.
Thay cho lời cảm ơn, ông đặt một bàn tay gầy khô lên
vai bà. Bà vẫn đứng yên, nhưng thực ra bà cảm thấy
như lảo đảo, sắp ngã khi bàn tay khô gầy ấy của ông
chạm vào người bà.
- Nhưng cuối cùng, sau tất cả những gì đã xảy ra,
bà có tha thứ cho tôi không? - Ông khẽ hỏi, khẽ đến
mức các từ dính vào nhau không thành tiếng.
Bà không trả lời. Mà bà cũng chẳng biết trả lời
thế nào. Trong bà lúc này nhiều tình cảm lẫn lộn cùng
dâng lên. Buồn và vui. Tình thương và oán giận. Độ lượng
và cố chấp... Nhưng bao trùm lên tất cả là mệt mỏi,
một sự mệt mỏi vừa dịu ngọt và cay đắng. Và dưới
sức mạnh của sự mệt mỏi ấy, không biết từ bao
giờ, bàn tay hai người đã nằm gọn trong nhau.
Ông từ từ bước ra phía cửa.
Bên ngoài, mưa và gió vẫn chưa dứt.
Bà đứng yên. Bà đang tưởng tượng thấy ngày mai ông
lại sẽ một mình chống gậy ra ga mua vé đi Mộc Châu.
Một mình. Một người già. Mưa gió...
Này ông - Bà khẽ gọi rồi bước vội về nơi ông
nghe tiếng bà đang đứng lại, chờ đợi. - Trời lạnh
thế mà ông... Ông vẫn táo bạo như xưa. Ông đem theo cái
này... - Rồi bà cởi chiếc khăn đen bạc màu quàng cho
ông năm mươi năm về trước, cũng vào một đêm tháng
chạp mưa và gió như đêm nay./.
Thái Bá Tân (Văn nghệ Quân đội)