Không hẹn trước mà lần nào trở về
tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa trăng có
ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm.
Thường thì người ở trên nương
cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên
là bảo nhau về, nhưng vào mùa trăng thì ai cũng
cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố,
vì người già bảo hạt lúa, bắp ngô cuối
ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn
buổi sáng. Thế nên nhiều hôm về đến
nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật
bên bếp.
Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn
tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy lần
mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại
mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi, cha tôi
bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ
ở đây mãi cũng như tao, như anh mày
thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín
bậc cầu thang với cái ngưỡng cửa.
Cố mà học lấy cái khôn vào đầu
nhưng phải nhớ giữ cái lưng cho thẳng,
giữ cái đầu không cúi xuống... Lìn
à". Lúc ấy, nhìn vào mắt cha, tôi đã
định không đi, nhưng cha đẩy tôi
lên xe. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi
nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học
lấy cái khôn vào đầu cho "mắt sáng ra,
cho miệng rộng ra" để mang về khoe với
cha chì cha đã ra đi, sau cái chết đột
ngột của anh Lân tôi. Từ đó, mỗi khi
nhớ về căn nhà rộng thênh thang của
mình, tôi không hình dung nổi nó ra sao khi thiếu vắng
bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của
cha.
Về đến con suối đầu bản tôi
gần như vấp phải một người
đang ngồi trên phiến đá rộng như mặt
bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp
vai vồng lên dưới lớp áo tà phủ còn
thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở
đây một mình thế?". "Ngồi chơi
trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi
con gái nhà ai phải không?". Chàng trai cuối
đầu ngượng nghịu. Tôi ngồi xuống
cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống
suối. Nước suối ấm, chầm chậm
uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu
người. Vì thế về bản phải lội
hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ,
anh em tôi với lũ bạn cứ nằm xoài ra,
để nước cuốn trôi từ trên xuống
dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân
vài lần là biết bơi.
Một tốp con gái đi nương về lội
ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ
khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, buông
lời chòng ghẹo. "Hôm nay lại có thêm một
người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần
Chải tìm ai đấy?". "Chắc là tìm
đứa con gái đẹp nhất rồi".
"Thế thì không có đâu. Con gái Vần Chải
ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười
rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn nghe tiếng
cười, cả tiếng hát cất lên: "...
Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông bàu mi
lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nuông
bàu mi vai..." (Bản em không có nắng, lấy trời
râm làm cảnh đẹp. Bản em không mưa phùn,
thì chàng ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội
vào vách núi cao ngất, xao động cả đêm
đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi
ấm của đám con gái vừa đi qua vẫn
còn phảng phất.
Đến đoạn suối thứ hai, định
lội ào qua rồi về nhà mình luôn thì tôi bắt
gặp một người đang dầm mình dưới
chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi
cao ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi
thụp xuống sợ bất chợt người
con gái quay lại nhìn thấy mình thì khó xử
quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau ngọn
Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng
lên. Người con gái có đôi bờ vai rất
tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ.
Tôi nghe rõ cả tiếng khoả nước...
Đang định đứng dậy, quay lại chỗ
ban nãy, chờ cho cô gái đi trước rồi mới
về. Thì cô gái đã đứng lên. Tôi cứng
đờ như thằng ăn trộm bị bắt
quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một
lúc rồi kêu lên: "Ôi, chú Lìn. Chú Lìn phải
không? Làm chị hết cả hồn. Chú về sao
không báo trước cho mẹ mừng?". Tôi líu
ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn
thế, lại còn đi một mình!". "ừ.
Cố một tí cho xong để mai còn sang nương
khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi,
chú không gùi được đâu. Lâu lâu không gùi
cái gì thì đau vai lắm.". Chị cúi xuống
xốc gùi củi lên vai. Gùi củi cồng kềnh
lại nặng nên cả người chị phải
lao về đằng trước. Đi sau, tôi nhận
ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy
áo ướt như có sương mù bay lên. ở
miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9
tuổi. Gùi mãi, đủ thứ trên lưng, già rồi
vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng còng sớm
hơn lưng đàn ông. Chị dâu tôi còn phải
gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ,
thay cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ
mới thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm
đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng
ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết
đi, phía sau tiếng khèn lá đã cất lên.
Nhà tôi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với
anh giống nhau y hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay
đùa bảo mẹ tôi phải lấy nhọ nồi
bôi lên mặt một đứa để còn biết
đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi
nhau mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa
nào chịu nhận mình là người phải
đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tôi lại
cao vượt lên. Mười tám tuổi anh Lân mới
chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới
vợ, tôi đã biết cầm dao chọc tiết
con lợn gần một tạ, anh em thôi không còn
cãi cọ nữa. Nhưng tôi đi chưa đầy
năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong
một đêm lên nương canh ngô. Cha tôi đau
buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp
có cháu nội. Không riêng gì cha mà cả họ
đều trông chờ vào anh Lân. Nhưng chị dâu
lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa
vài gang tay, một tay tôi cũng đủ sức nhấc
bổng chị lên. Không biết có phải vì thế
mà anh chị chưa kịp có con hay không?
Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp
nhận ra sự thiếu vắng bóng đàn ông
ngay trong ngôi nhà của mình. Một bậc cầu
thang bị vỡ ra một miếng từ bao giờ
chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy
nham nhở gần đến tay cầm vẫn cố
dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng
chơ... ở nhà thì thế, còn khi trong họ,
ngoài bản có việc gì lớn nhà mình không có
đàn ông, đàn bà có đến cũng chỉ
được ở dưới bếp, trưởng
họ có nói gì không thuận tai cũng phải nghe
theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc
chị dâu cũng chẳng bao giờ mặc váy áo
đẹp đi đâu.Mẹ sờ nắn khắp
người tôi, bắt tôi ngửa hai bàn tay xem vết
chai còn hay mất, nhìn tôi chăm chăm suốt bữa
ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết
ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột
của tôi. Tôi đã xa ngôi nhà của mình quá lâu,
lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi của
mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp.
Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ
trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi
nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy.
Thỉnh thoảng có người xuôi, tôi lại nhận
được chè chị gửi. Chè ở đây
mọc hoang. Dưới thấp người ta còn
chặt đi để lấy chỗ trồng thứ
khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc kệ,
muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa
xuân nhà nào có người hay uống chè lại
mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là
đủ chè uống cả năm, uống đến
mùa xuân năm sau.
Mí quấn lấy tôi một lúc lại bỏ
sang ôm cổ chị dâu đòi đi ngủ. Ngày chị
về nhà tôi Mí mới được hơn 2 tuổi
vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với
chị cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi
mình Mí dứt khoát không gọi chị dâu mà gọi
chị gái, mẹ nói thế nào cũng không nghe.
Tôi bảo với mẹ rằng lần này tôi về
để đón mẹ xuống ở với tôi, lần
sau thì đón cả chị dâu, cả em Mí, tôi muốn
mọi người ở bên mình, muốn mọi người
hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên
đầu gối: "Đấy là những gì
mày học được từ khi ra khỏi nhà phải
không Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào tao chưa thấy,
chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn
thôi, quên cả lời hứa khi nào tinh như con cắt
lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ,
có nhiều con trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ
mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà
trẻ con vẫn lớn được! Không có ai
chết vì khổ được đâu, chỉ có
chết vì trong bụng đựng toàn điều
xấu thôi...".
Tôi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải
như mẹ nghĩ, nhưng không mở miệng
được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc
sống khác, mẹ cần một đứa con trai
để ngày mưa gió có người dọi nhà,
có người chèn cửa. Chị dâu khẽ khàng
lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng
nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo mệt". Chị
đã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ
cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau nhừ, mỏi
rã rời mà không sao ngủ được.
Đã gần giữa thu, trời bắt đầu
lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách nứa.
ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ,
hắt cả một quầng sáng vào trong nhà. Cả
bản tôi nằm gọn trong một thung lũng, bốn
phía là rừng, qua rừng đến nương ngô,
nương lúa, qua nương lại đến rừng
rồi đến bản khác? Bản ở dưới
thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm,
những nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng
cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là những
tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ
rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng
cửa trước ra cửa sau. Đêm trời
càng gió, trăng càng sáng thì hôm sau càng nắng to.Hồi
còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng bám áo anh
Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi
sáo suốt đêm. Anh Lân thổi khèn lá tài lắm,
phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối
không về được. Thế mà về bản,
đứng ở đầu hồi nhà người
ta có khi ba đêm liền cũng không thấy ai ra.
Ba đêm không được thì bảy đêm, bảy
đêm cũng không được là hỏng rồi,
sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà chị
dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy
mà không được gì đã định bỏ.
Cả ngày hôm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm.
Đến đêm thứ tám lại mang mũ nồi
giấu dưới gối, đi. Đêm thứ
chín, trăng lên muộn lắm, tôi đã thiu thiu
ngủ lại thấy anh dậy mặc áo. Anh bảo:
"Thôi đêm nay mày đừng theo tao nữa, muộn
rồi. Tao đi, có khi ngủ luôn ngoài rừng
không về". Gần sáng thì anh về, lật chăn
ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc
khăn tay màu xanh thêu mấy bông hoa trắng lấm
tấm. ít lâu sau, anh cưới vợ...Đêm
khuya, bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả
tiếng nước đập vào ghềnh đá
rào rào ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi
muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng...
và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối
vọng vào. Tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như
tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước
lũ, lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi
sớm... Tiếng khèn như thế nói được
nhiều điều lắm, đủ để cô
gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng
làm tất cả vì cô, đổi tất cả những
gì mình có để lấy ánh mắt của cô,
bán tất cả để mua nụ cười của
cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải
đá sắc lên nương, sợ gai cào tay cô,
làm rách vành khăn của cô lúc vào rừng. Chàng
trai ấy nhìn cô cười để vui, nhìn cô
khóc để buồn... Không biết chàng trai có
đôi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi
ai.
Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của
sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén bước
ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài
đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần bật,
một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực.
Tôi nhắm nghiền mắt. Hẫng hụt, như
người rơi xuống đáy sông sâu hun hút...
Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt
tôi cố nén để không vùng dậy. Nhưng chị
dâu chỉ đi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra
quấn. ánh lửa bập bùng hắt lên gương
mặt tròn của chị. Hình như đến giờ
tôi mới thực sự hiểu ra vì sao ngày xưa
anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ
chín. Đôi gò má căng, đỏ rừng rực,
khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ
ba ngấn cổ cao trắng ngần, khuôn ngực
phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi
lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh
nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn thờ.
Được một lúc, chị đứng dậy
với thúng ngô trên gác xuống tẽ... Tiếng
gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng
cắn chặt môi tê dại. Lát sau tôi thiếp
đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền
rĩ dưới gầm sàn mới tỉnh dậy.
Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát,
thậm chí tôi không dám tin chắc có tiếng khèn
đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối
tung nằm đó... Chị mang ấm nước nóng
ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có
phải co chân không chú Lìn?". Tôi hấp tấp:
"Đặt mình xuống là ngủ luôn chị
dâu à. Lâu quá mới ngủ được một
giấc ngon như thế". Chị dâu cười.
Tôi thấy đầu óc váng vất.Trời còn chưa
sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi bảo:
"Năm nay nhà mình làm cốm được
đấy con dâu?". "Vâng, có chú Lìn về
mà!". ở quê tôi, mùa cốm là mùa hội.
Sáng mười bốn âm lịch, mặt trời
còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương
lúa cao nhất "tan" lúa về. Buổi chiều,
đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗ đắp
bếp đất, đàn bà nhóm lửa nướng
thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con
gái trong bản kéo nhau tới giã cho từng nhà.
Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm
vào giã, giã để còn được ngắm
nhau, được nói lời hay với nhau mà
không sợ ai nghe mất. Thế nên sáng hôm sau về
nhà có ai hỏi đêm qua giã được mấy
mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm
trước không cũng chẳng biết. Mấy
năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ
mang một cum sang gửi hàng xóm lấy cốm cho
cái Mí ăn chứ nhà không làm.Chị dâu đi
đến trưa mới về, bốn cum thóc nếp
còn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn
gánh. Mẹ kêu lên: "ấy da, lấy về nhiều
thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm
thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú
Lìn khỏi quên mùi núi rừng thôi mẹ à".Chập
tối, hai chị em đắp bếp, nướng
thóc, xếp sẵn một lượt vào cối
dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai,
ba đứa con trai con gái xen nhau. Đứa con gái
có cái lúm đồng tiền cất tiếng hát,
hát xong, bọn con trai nhấc chày lên, lúc con trai
giã xuống, bên kia con gái nhấc lên. Vừa giã vừa
chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích
cười. Một đứa con gái nói to, át cả
tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm
sao con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi,
ngày càng đẹp thế". "Em nói ai?".
"Còn ai nữa. Bao nhiêu đứa muốn hỏi
chị đun nước lá gì gội đầu mà
tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì
mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói
lung tung thôi. Chị già rồi mà". "Không già
tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế
lại khối người Vần Chải khổ
thôi". "Bậy quá. Không được đùa
thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười
vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối,
sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài.
Bốn cum thóc, chỉ một loáng, trăng lên
đến ngọn cây dẻ cao nhất cuối rừng
thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt
kéo nhau sang nhà khác. Còn một mình chị dâu lúi
húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt
tiếng khèn lá đêm trước lại dội lên,
chị luống cuống bê thúng cốm đi
như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị
cài chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe
tiếng thở dồn dập rất lâu.
Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước
bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng
thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng
manh của mẹ. Sau khi làm hai đám ma, trong nhà
tôi hầu như không còn gì. Bò, dê, gà, lợn mổ
để thầy mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng
hết. Cha tôi mất tháng trước thì tháng sau
trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ
lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc
mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày
này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả
bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời
vẫn không cho một giọt mưa. Trên nương,
ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt
lại, lúa ngả sang màu trắng, bông phất phơ
như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ
nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba
ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng,
đến sáng thứ tư thì thôi. Đứng
dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một
màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hoàng
quá, không ai còn khóc được.
Nương sắn chưa đầy năm
cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao, mang
gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới
về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào
cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở
ăn, rồi say, nôn ra máu. Nó ốm, tóc rụng trơ
cả da đầu, nằm ẹp như một con
mèo con, chỉ còn thấy hai hốc mắt. Mẹ
cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường
Mí mấy đêm liền, đến lúc chị dâu
đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn
co như đang ngồi. Ban đêm, lúc mọi người
ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối
lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng sớm,
lúc mọi người chưa dậy, chị đã
mang ống bương qua hai quả núi đi lấy
nước... Những ngày tháng ấy nếu không
có chị dâu không biết điều gì sẽ xảy
ra. Còn tôi, khi về được bản,
nương lúa mới trỉa đã bắt đầu
lên xanh, phủ dần màu đen của tro than.
Như một sự trả nợ, vụ ấy trời
cho được mùa, lúa ngô mang về không còn chỗ
để.
Chú tôi đến chơi, bảo là "để
xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ".
Chú thím cố mãi cũng chỉ toàn con gái. Tưởng
có mỗi chuyện ấy thôi nhưng đến lúc
ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi
rửa chú mới nói: "Chị à, con dâu ngày
càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo
mang tiếng họ Bàn". "Chú nói gì? Nó đi
đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương,
từ nương về nhà, mặt chỉ biết
cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị không
biết rồi...". "Biết cái gì?".
"Người già mà ngủ say được thế
sao chị dâu? Ngủ say quá nên không nghe đêm trăng
nào cũng có đứa đến gần nhà thổi
khèn lá! Đứa ấy gọi ai? Gọi cái Mí
chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng
mà không nghĩ lung tung thì má không như hoa dào thế
đâu".
Tiếng nước xối ào ào rồi lặng
yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị
dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước
bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào đôi bắp
chân tròn. Con gái miền núi có đôi bắp chân
đẹp là nhớ quấn xà cạp lúc đi làm,
lúc ra khỏi cửa, chỉ đệm mới tháo
ra. Chú tôi vê điếu thuốc lào phả khói mù
mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng
ra về. Chị dâu rút nắm đuốc trên gác
bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu
thang. Ngày trước, chú là người phản
đối việc anh trai tôi đòi cưới chị.
Chú chê chị bé, chê con gái mà ngực lép, lông mày
rậm là không biết làm dâu, là có lúc cãi bố
mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tôi mất,
chính chú lại là người thương chị
dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với
con gái. Thế mà bây giờ...
Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới
về, nghe chú nói, biết thế, đừng
nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế
nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu
họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn
gì cũng không được đâu".
Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo
cố dệt để còn kịp đi phiên chợ
tới. Tôi bảo để tôi thức cùng cho chị
đỡ buồn, chị bảo đàn ông chỉ
thức đêm ngoài sông, trên rừng, không ai thức
cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch xạch,
lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủ
được.
Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm,
từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng ngồi
bên khung cửi, đống lanh trắng chất
đầy hai quẩy tấu không hết. Từng
đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng
đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm răng
nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang
dây lanh ra buộc cửa, buộc thêm, thêm mãi,
thành một đống rối tung to xù. Không biết
có phải tại ánh trăng hắt từ bên
ngoài vào hay không mà tôi thấy mặt chị đã
không còn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt
người say rượu. Đêm thứ tư,
đêm thứ năm... đến đêm thứ bảy
thì tôi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa,
giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng
nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi lanh thô cứng
cửa vào tay chị bật máu...
Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng
con trai còn rất trẻ, tóc ướt sũng
sương đêm ấy lủi thủi bỏ
đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng
ở chân cầu thang, mắt nhìn chằm chằm
vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi
đi qua chị không nói một lời nào, run lên
vì hơi nóng rừng rực đang toát ra từ
đôi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng,
từ đôi mắt thăm thẳm của chị.
Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay
chú vài hôm. Tôi mang dao quắm, đèn pin đi.
Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại
luôn đến hôm nào chú khỏi mới về. Buổi
chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với
thịt dê. Chị cắm cúi dọn nồi niêu, chăn
màn, không nói câu nào. Mãi đến lúc chị định
về, tôi cũng mới mở miệng được:
"Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn
lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em
không chịu được...". Chị dâu run
run: "Chị không nghĩ đến thằng Sìn
bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế
thì chị dâu nghĩ đến ai? Ai hở chị
dâu? Người ấy có ở Vần Chải
không?". "Chú đừng hỏi nữa, chị
xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như
thác lũ thượng nguồn không gì ngăn
được. Khóc như để trôi đi những
bức bối trong lòng. Nước mắt chảy
ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt
xuống ướt ngực áo...
Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn
không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi.
Tiễn tôi đi chỉ có chị dâu với em Mí.
Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng
lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho
tôi: "Chú mang đi để khỏi quên
đường về Vần Chải". Tôi cố
nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh
ánh trăng mờ xa cuối rừng chưa kịp
lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe
núi lùa ra thông thốc làm váy chị, váy em Mí xoè
ra.
Tôi mím môi bước đi. Bãi lanh còn đẫm
sương đêm quệt vào mặt lạnh buốt.
Ra đến đoạn suối bên ngoài lại
nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến
đá rộng, một người đang gục
đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối.
Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn!
Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên nhận ra
tôi hình như nó định đứng dậy,
định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi
yên. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt
sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt
tím tái...
Tôi đi qua Sìn. Hòn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng
cuối mùa vẫn chưa kịp lặn nhưng
đã lẫn vào chân trời đang sáng dần
lên.../.
Đỗ Bích Thuý