Tóm tắt: - Câu chuyện do người cháu, gọi
bà Hậu bằng dì kể. Dì Hậu vốn là người
con gái đẹp có tiếng ở làng Chùa, một
vùng quê Bắc Bộ. Năm 1954 dì bỏ trốn
gia đình vào Nam, vì phải lòng một sĩ quan
trong quân đội Pháp......
Hai mươi mốt năm sau, tôi mới gặp
dì Hậu. Cuộc hội ngộ trùng phùng không phải
ở thành phố quê nhà mà ngay giữa Sài Gòn. Lúc
ấy, tôi đã là một anh lính giải phóng kỳ
cựu ở chiến trường, nếm đủ
mùi cay cực. Tôi còn sống, cũng là điều
may mắn. Ngày tôi tới được Sài Gòn,
thành phố đã giải phóng 3 tháng. Chồng dì
tôi đã chết trận, dạo Mậu Thân. Dì Hậu
bảo thế, tôi biết vậy không hỏi thêm.
Hai mươi năm xa dì, khoảng thời gian
đằng đẵng ấy đủ để
đẩy dì và tôi theo những nẻo đường
khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Thực
sự dì và những đứa con của dì có một
cuộc sống riêng. Tôi cũng vậy. Thế giới
của tôi là những người bạn lính.
Đứa chết, đứa còn sống, sau những
ngày giao tranh ở Huế, Đà Nẵng(...)
... Một buổi chiều, dì Hậu vào phòng
tôi. Thấy tôi còn đọc sách, dì hỏi:
"Sao cháu của dì có vẻ không vui?" "Dì
ạ! Mai cháu xin phép dì cho cháu về đơn vị.
Họ chỉ cho cháu đi 3 ngày!" Tôi trốn
câu trả lời. Dì Hậu ngồi xuống bàn vuốt
tóc tôi, nhìn tôi một hồi lâu. Dì bảo: "Tội
nghiệp cháu... Thế mà đã hơn 20 năm rồi".
Tôi im lặng. Nhưng tôi biết dì tôi nhớ tới
cái ngày dì lừa ru cho tôi ngủ để trốn
đi. "Dì còn nhớ quê hương không?"
"Nhớ! Nhớ lắm cháu ạ... Nhiều
đêm dì nằm khóc nhớ ông bà, các bà và mẹ
cháu nữa". "Bây giờ dì có thể về
thăm quê. Đất nước thống nhất
rồi". - Tôi bảo dì vậy. "Chưa
được cháu ạ. Dì còn phải đi
xa...". "Dì đi đâu?" Dì Hậu không
trả lời tôi, thẫn thờ đứng dậy
nhìn ra ngoài mặt sông. Ráng chiều đỏ rực.
Nước sông như loang tím, từng mảng lục
bình trôi vật vờ chao đảo theo con sóng táp
vào bờ. Chợt dì Hậu quay lại nhìn tôi.
"Cháu muốn xin dì cái chi nào?" Tôi khẽ lắc
đầu: "Cháu còn đang tại ngũ. Dì có
cho cháu cũng không dám nhận. Được gặp
lại dì là cháu mừng lắm rồi. Nếu có
thể dì cho cháu con chim cu gáy. Cháu mang về Huế
treo chơi, đỡ nhớ nhà...".
Con chim cu gáy của dì Hậu cho ở với tôi
vừa được 6 tháng. Tôi giải ngũ chuyển
ngành đi học. Ngày nhận tờ quyết định
đi học trong tay, tôi đã bóp bẹp cái lồng
quả nhót, thả con chim cu gáy về lại với
cánh đồng đang mùa gặt.
Kỳ nghỉ tết năm 1976, về quê tôi
nghe bác Hà kể: Dì Hậu đã mang theo mấy
đứa con và cả thằng Hàn vượt biên
trốn ra nước ngoài. Dì Hậu xuống Rạch
Giá đi thuyền qua ngả Thái Lan rồi qua Mỹ...
Tôi nghe lòng buồn rười rượi. Chẳng
hiểu vì sao dì tôi phải trốn đi nước
ngoài? Tôi không hiểu được. ừ, như
mấy đứa con trai con gái,, con rể của
dì chúng đã quen với lối sống Mỹ, chẳng
ưa gì cách mạng, thôi thì đành nhẽ. Còn
dì tôi... Dì bỏ cả nhà cửa, mồ mả chồng
con, tổ tông để sống nơi đất
khách quê người. Đứng giữa cánh đồng
lành Chùa trơ chân rạ, tôi muốn hét to lên rằng:
Dì ơi! Hàng vạn những đứa như con
đã chết để mong ngày đất nước
thống nhất! Sao dì nỡ bỏ đi.Mấy chục
năm sau đó, bà Hậu từ Anh quốc tìm về
quê hương...
... Mọi người chẳng phải đợi
lâu. Dì Hậu về làng vào lúc 6 giờ tối. Chỉ
nửa tiếng sau, nhà bác Tắt râm ran có khách.
Con cháu nội ngoại, các bà các cô xưa kia từng
là bạn bè của dì Hậu. Người đến
thăm hỏi chia vui với dì, người tò mò
muốn xem lại cái "cô Hậu lột giời
rơi xuống" chẳng biết sợ ai, nay ra
sao. Tắt cả đã nên ông nên bà. Trên khoảng
sân lát gạch nhà bác Tắt một ngọn điện
được thắp sáng. Chiếu hoa rải san
sát có sẵn những bộ cốc chén uống
trà. Đám trẻ con rồng rắn kéo đến
chơi la hét om sòm ngoài ngõ, chạy đuổi nhau
rần rật trong sân. Chúng được dì Hậu
cho kẹo. Vài đứa lớn rỉ tai nhau không
tin đấy là một Việt kiều từ Anh quốc
trở về: "Bà già cổ bỏ xừ, còn
thua xa mấy anh chị đi lao động ở
Đức".
Đúng thế thật! Dì tôi đã ở ngoài
tuổi 60, về quê dì chỉ mặc tấm áo
màu gụ, quần láng đen, không son phấn, tóc
búi tó sau lưng ló ra nhiều sợi bạc. Lúc mới
về nhà, dì Hậu đã xin phép bác Tắt cẩn
trọng thắp tuần nhang lên bàn thờ tổ
tiên.
Buổi sáng hôm sau, tôi được bác Hà phân
công đưa dì Hậu ra mộ. Tôi chở dì
trên chiếc xe Honda cũ kỹ, nhưng máy còn tốt.
Khu mộ của dòng họ Nguyễn ở ngoài
cánh đồng làng Chùa, ngay trước cửa
đình. Con đường đá xưa kia gồ
ghề nhiều ổ gà nay được mở rộng,
trải nhựa. Lớp lớp những ngôi nhà hai
ba tầng mọc lên quay mặt ra đường dựng
nên phố mới. Đến gốc cây si già đầu
cống dì Hậu bảo tôi dừng lại, xuống
xe. Dì muốn đi bộ. Biết tôi nay đã trở
thành một nhà báo, dì bảo: "Hôm nào rảnh
rỗi, dì sẽ kể chuyện cuộc đời
di để cho cháu viết truyện". Chẳng
hiểu nghĩ sao dì lại nói: "Dì biết
cháu là người có học, tự trọng, không
phải như anh Từ, anh Chiêu...". Tôi lảng
chuyện: "Dì có thấy làng mình khác xưa không?".
"Khác nhiều cháu ạ. Làng ta xưa kia chỉ
có hai cái nhà ngói của ông Quản Dư và ông
Giáo Kiểm. Tháp canh trại lính đóng ở chùa
cao nhất làng... Đêm nào lính cũng đứng
trên bốt canh bắn ra ngoài cánh đồng. Có bữa
dì ra ngoài chợ Tông họp với mấy anh, lúc
lội ruộng về tới đầm sen suýt nữa
bị chúng bắn chết...".
Tôi không tiện hỏi dì "anh nào" và
"đi họp" về cái gì, càng không muốn
khuấy động những hoài niệm của dì
về một miền quê, nên im lặng.
Đến bên mộ ông bà ngoại, tôi thắp
bó nhang và trao cho dì Hậu. Tôi đứng sau
lưng dì một bước, chắp tay. Tôi không
tin ở tai mình khi nghe dì Hậu khóc: "Lạy Trời,
lạy Phật mớ bái. Con xin cúi đầu lạy
vong hồn thầy mẹ sống khôn chết thiêng
soi thấu lòng con. Vì việc dân việc nước,
thân gái dặm trường con phải rời xa quê
nhà, để thầy mẹ sớm hôm ưu phiền.
Nay con hoàn tất nhiệm vụ trở về thì
thầy mẹ đã không còn nữa... Con cúi đầu
xin vong linh thầy mẹ tha thứ...".
Dì Hậu khóc. Và tôi cũng khóc. Bốn mươi
tuổi có dư, trước dì tôi vẫn chỉ
là một đứa trẻ.
Buổi tối, dì Hậu kêu nhức đầu
đi nghỉ sớm. Dì nằm với mẹ tôi một
giường. Hệt như thuở xưa vào những
dịp bố tôi có công chuyện phải đi buôn
bán xa nhà dăm bảy ngày, dì lại vào ngủ
chung với mẹ tôi. Lấy cớ sợ ma, nhưng
kỳ thực dì vào nằm để nói chuyện
hoặc đọc cho mẹ tôi nghe từng đoạn
dài "Tây Thi cống Hồ". Tôi nằm kẹp
ở giữa ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Quãng gần sáng, chợt dì Hậu vùng dậy,
hét lên một tiếng. Mẹ tôi thức giấc.
Người dì đẫm mồ hôi lạnh. "Chị
ơi! Hình như em nghe như có tiếng
chuông". "Phải, tiếng chuông nhà thờ gọi
người đi lễ dì ạ. Còn sớm, mới
bốn giờ, dì ngủ thêm một lúc nữa".
"Ngày ở Sài Gòn, đêm nào em cũng thức
giấc vào giờ này chị ơi. Cạnh nhà em cũng
có một nhà thờ nhỏ. Mỗi lần nghe
chuông nhà thờ gióng lại nhớ đến quê.
Chị có nhớ ngày bé, bằng tầm này bu đã
khua hai chị em mình trở dậy nổi lửa vắt
bún...". "Tôi nhớ dì ạ. Ngày ấy sao
mà khổ thế. Trời giêng hai rét như cắt
ruột... Ngày bà mất cứ gọi tên dì, bắt
thằng Công phải đi tìm dì về cho
bà...".
Một lúc sau, không thấy tiếng hai bà nói chuyện
nữa. Trong bóng tối, tôi nghe tiếng dì Hậu
thở dài.
Sáu giờ sáng hôm sau, dì Hậu mất. Dì không
trối trăn. Không rên la. Dì đi nhẹ nhàng như
chìm sâu vào trong một giấc ngủ say. Nét mặt
tươi, mãn nguyện.
Đám tang của dì Hậu được cử
hành theo nếp cũ của làng tôi. Con cháu trong
dòng họ đủ sức thuê cả chục xe ca
chở người đi đưa tang dì, nhưng
bác trưởng Tắt gạt hết. Ông đi coi
thầy xem giờ liệm, rồi cho mời đội
kèn, đội trống phường bát âm về tại
nhà. Linh cữu của dì Hậu được
đặt lên cỗ xe tang bánh gỗ.. Người
đưa đám ma dì Hậu đi bộ hàng nửa
cây số dọc theo con đường đá của
làng Chùa. Cờ phướn rợp một quãng
dài.
Mỗi lần về quê tôi thường ra thắp
hương cho dì Hậu. Dì nằm gần kề với
mộ bố tôi và bà ngoại. Trong khoảng không
bao la của trời đất, giữa một vùng
mộ trắng xoá tôi giật mình nghe tiếng cười
ròn tan của dì. ấy là dì Hậu vừa lừa
được mẹ tôi, bà Giáo Chức trong ván
bài tam cúc, kết đôi xe hồng.Tôi mở bừng
mắt, nhìn quanh quất. Đồng làng Chùa vắng
ngắt. Trên bờ mương xa xa, chỉ có mỗi
ông Tài chùm hụp trong chiếc áo mưa bạt
sơn cũ dắt con bò vênh sừng gặm cỏ.
Ông là người của làng cử ra trông coi mồ
mả./.
Đỗ Kim Cuông
Vài nét về
tác giả:
Sinh năm
1951 tại Thái Bình
Hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam
Hội viên
Hội Nhà báo Việt Nam